Thứ Năm, 13 tháng 2, 2020

Ghi chép CAO BẰNG - 1979 (phần 4 & 5)

CAO BẰNG - 1979 (phần 4)
Ghi chép của Trọng Bảo

Vị trí chỉ huy và cơ quan tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 3 tiếp tục dâng lên phía trước. Chúng tôi chuyển lên đóng quân ở bản Cốc Vường, ngay phía sau các điểm chốt tiền tiêu cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai của Đại đội 11, cách đường biên giới và cửa khẩu Bình Mãng độ hơn nửa ki-lô-mét đường chim bay. Bản Cốc Vường còn rất ít người dân ở lại. Hầu hết trẻ em, phụ nữ, người già đã sơ tán về phía sau hoặc lánh lên núi cao, chỉ còn một số dân quân, thanh niên trai tráng ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ bản, trông coi nhà cửa và hỗ trợ bộ đội tuần tra canh gác, vận chuyển đạn dược.

Bản Cốc Vường là nơi có đền thờ Đại vương Nùng Trí Cao, một nhân vật lịch sử sống vào những năm đầu thế kỷ XI (1025-1053). Ông quê ở châu Quảng Nguyên (nay là tỉnh Cao Bằng). Lúc sinh thời ông đã nhiều lần tổ chức lưc lượng chống phá quân giặc ngoại xâm góp phần bảo vệ biên giới quốc gia Đại Việt. Nùng Trí Cao được nhà Lý phong làm châu mục Quảng Nguyên, cai quản một vùng đất rộng lớn nơi biên ải bảo vệ bình yên cho nhân dân. Sau khi ông mất, vua Lý đã sắc phong cho ông là "Khâu Sầm Đại vương". Nhân dân đã lập đền thờ vị tướng biên cương Nùng Trí Cao tại khu vực bản Cốc Vường. Chiến tranh biên giới xảy ra, đền thờ ông bị đạn pháo quân xâm lược bành trướng bắn phá tan tành. Nhân dân Sóc Hà đã xây dựng lại sau năm 1979.

Tiểu đội vô tuyến của tôi ở trên căn nhà sàn nhô ra sát con đường lên cửa khẩu. Đứng trên sàn nhà có thế quan sát các điểm chốt của Đại đội 11 và thấy rõ cả đài quan sát của bọn Trung Quốc ở mỏm núi đá phía bên phải trên đầu điểm chốt cây đa thứ nhất của Đại đội 11. Phía bên trái là trận địa Kéo Nghìn và bản Cốc Nghịu do Đại đội 9 phòng ngự. Trên dãy núi đá là trận địa hỏa lực của Đại đội 12 gồm các khẩu đội 12ly7 và cối 82 bố trí tại Lũng Mật, Lũng Vỉ. Từ trên trận địa của Đại đội 12 có thể quan sát rất rộng toàn bộ khu vực thị trấn Sóc Giang và thị trấn Bình Mãng bên kia biên giới. Đại đội 10 thì chốt giữ ở phía sau, trấn giữ con đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang (huyện Hà Quảng). Trận địa phòng ngự của Đại đội 10 là mỏm núi đất nằm ngay dưới chân cao điểm 505. Cao điểm 505 nằm trên dãy núi đất cây cối rậm rạp chạy song song với dãy núi đá vôi xuôi về phía xã Quý Quân và Mỏ Sắt, Thông Nông. Cao điểm 505 có tầm quan sát, khống chế toàn bộ thị trấn Sóc Giang và xã Sóc Hà cho đến tận ngã ba Đôn Chương.

Do phải di chuyển vị trí đóng quân lên bản Cốc Vường nên tiểu đội vô tuyến sóng cực ngắn của tôi đều có mặt đầy đủ ở cơ quan tiểu đoàn bộ. Các tổ đài đi tăng cường đảm bảo thông tin cho chỉ huy các đại đội đều rút về bản Cốc Vường. Lâu lâu rồi chúng tôi mới lại có một bữa ăn có mặt đầy đủ toàn tiểu đội thế này. Bữa cơm tối có một chút chất tươi. Nhà bếp cơ quan tiểu đoàn bộ mổ con lợn lấy thực phẩm nên mỗi người được vài miếng thịt, miếng lòng dồi.

Vừa ăn, tôi vừa tranh thủ phổ biến tình hình, động viên anh em và phân công công việc ngày mai cho các bộ phận. Ngày mai là chủ nhật, trừ bộ phận trực đảm bảo thông tin sẵn sàng chiến đấu số anh em còn lại của tiểu đội sẽ đi làm đất trồng ngô. Chúng tôi đã được bà con dân bản cho mượn một vạt đất gần phía hang Ma Gà để tổ chức tăng gia sản xuất. Mùa xuân đang tới. Mưa xuân tạo không khí ẩm ướt cho một vùng đất đai khô hạn. Cây cối đang lên chồi nảy lộc. Mùa xuân cũng là mùa cày cuốc gieo trồng trên vùng cao này.

Nghe tôi phổ biến công việc xong thằng Châu liền hỏi luôn:
- Đánh nhau đến nơi rồi mà vẫn đi trồng ngô hả anh?
- Phải trồng để lấy lương thực chứ! Khi nào đánh nhau hẵng hay...
Nghe tôi nói vậy anh em ồn ào bàn tán. Tiểu đội phó Vũ Văn Tự nói:
- Khu đất sau bản ấy rất màu mỡ, trồng ngô chắc sẽ tốt lắm đấy!
Tôi nói thêm:
- Ăn tối xong mọi người tranh thủ vào các nhà dân trong bản còn có người ở lại mượn cuốc xẻng để mai đi làm đất trồng ngô. Hạt giống tiểu đoàn sẽ cung cấp rõ chưa?
- Rõ... rõ...
Mọi người đáp và nhanh chóng thu dọn xoong nồi, bát đũa. Mấy anh em khác thì tranh thủ đi mượn dụng cụ lao động. Tôi rút cuốn sổ ghi chép ra nhưng chưa kịp viết gì thì tiểu đội trưởng truyền đạt Nguyễn Văn Đam đến. Tôi và thằng Đam ngồi nói chuyện với nhau. Đam bảo:
- Tao có linh cảm là chiến tranh sắp xảy ra mày ạ!
- Thì… chắc chắn thế nào chiến tranh cũng sẽ xảy ra thôi. Tình hình như thế này chả sớm thì muộn hai bên cũng phải choảng nhau một trận chí tử mới xong…

Nghe tôi nói vậy Đam càng có vẻ trầm ngâm rồi nó nói:
- Biết bao giờ chiến tranh mới kết thúc để bọn mình ra quân về nhà tiếp tục ôn thi vào đại học nhỉ?
Tôi ngập ngừng bảo:
- Cũng chả biết liệu bọn mình có còn cơ hội để học hành nữa hay không? Chiến tranh dù không xảy ra nhưng nếu cứ nhùng nhằng mãi thế này cũng khó mà xuất ngũ ra quân được… À… mày vẫn còn mang theo mấy cuốn sách giáo khoa để ôn thi đại học phải không?
Thằng Đam gật đầu. Tôi nhăn mặt bảo:
- Tình hình thế này cũng đã đến lúc mày vứt mẹ mấy cuốn sách ấy đi cho nhẹ khi hành quân, để đeo thêm mấy băng đạn, vài cân gạo. Bao giờ chiến tranh chấm dứt chúng mình tính sau?
Thằng Đam im lặng thở dài không nói gì. Đoạn, nó xách khẩu AK đứng dậy bảo tôi:
- Thôi! Tao về đây, sắp đến phiên đổi gác rồi!

Tôi nhìn theo thằng Đam tụt xuống cầu thang. Trông nó gầy gò nhỏ bé. Khi bóng thằng Đam đã lẫn vào bóng đêm rồi tôi vẫn chưa thôi suy nghĩ về nó. Tôi và thằng Đam cùng quê Lập Thạch, Vĩnh Phúc, cùng nhập ngũ tháng 2-1975. Hôm lên huyện tập trung để dự lễ giao nhận quân tôi chỉ có một bộ quần áo mặc trên người và cái túi đựng cuốn sổ ghi lưu bút của bạn bè. Trong khi đó thằng Đam đeo một cái bọc to kềnh càng sau lưng. Tôi hỏi:
- Mày mang theo đồ đạc gì mà nhiều thế?
Nó bảo:
- Tao mang theo sách vở để lúc nào rỗi thì học thêm. Hoàn thành nghĩa vụ trở về quê tao sẽ tiếp tục thi vào đại học.
- Mày viển vông quá! Đang chiến tranh thế này biết bao giờ mới trở về đi học được?
- Chiến tranh rồi cũng phải kết thúc chứ!
- Nhưng hành quân súng đạn, gạo củi nặng bỏ mẹ mày còn đeo thêm sách vở thế nào được.
- Tao sẽ cố...
- Thôi mặc xác mày!
Nhận quân trang xong, được cấp thêm bảy ki-lô-gam gạo nữa nên ba lô của chúng tôi căng phồng. Tôi cứ tưởng là sẽ leo lên ô tô rầm rập phóng ra mặt trận ngay. Nhưng không, chúng tôi được biên chế vào một đơn vị thuộc tỉnh đội. Và việc đầu tiên là hành quân bộ vượt sông Lô sang huyện Lâm Thao huấn luyện. Đoạn đường gần năm mươi cây số không xa, nhưng lần đầu tiên cuốc bộ lại không quen với đôi dép cao su mới phát nên chân tôi chầy chật rớm máu. Tôi để ý thấy thằng Đam vẫn lặng lẽ bước đi phía trước. Trông nó vóc dáng đã bé nhỏ nên như bị cái ba lô đè gập người xuống. Tôi nghĩ: "Cứ đà này thì qua phà nó ném bọc sách vở cho trôi sông Lô luôn!".

Nhưng Đam vẫn mang được bọc sách vở về đến đơn vị. Suốt thời gian huấn luyện chiến sĩ mới lúc nào được nghỉ tôi thường thấy Đam chúi đầu vào mấy cuốn sách. Mặc cho tôi và mấy thằng cùng tiểu đội khích bác nhưng Đam vẫn bỏ ngoài tai. Nhiều lần gặp tôi nó khoe vừa giải được một bài toán khó trong tuyển tập đề thi đại học. Tôi bảo:
- Biết bao giờ mới được ra quân mà mày học làm gì cho tốn công tốn sức?
- Thì rồi đến lúc cũng phải ra quân chứ. Chiến tranh chống Mỹ kết thúc rồi họ sẽ cho tụi mình về thôi!

Nhưng chúng tôi không được xuất ngũ như thằng Đam nói. Đơn vị chúng tôi nhận lệnh hành quân lên Hà Giang làm kinh tế. Chúng tôi nhận nhiệm vụ đào đất phá đá mở con đường lâm nghiệp giữa rừng sâu. Đó là những ngày gian khổ nhất của cuộc đời chiến sĩ chúng tôi. Sống giữa rừng sâu ăn uống thiếu thốn làm việc vất vả. Tôi và Đam mỗi người về một đơn vị khác nhau. Hôm đi công tác qua Tiểu đoàn 1, tôi tạt vào thăm thằng Đam vẫn thấy trên giá ba lô chỗ nó nằm những cuốn sách ôn thi đại học đã sờn gáy. Thì ra, nó vẫn không quên việc học tập. Hình như đối với nó học là một niềm vui hy vọng của cuộc sống.

Niềm hy vọng vào đại học của thằng Đam lại không thể thực hiện được khi chiến tranh biên giới đang có nguy cơ nổ ra bất cứ lúc nào. Tôi còn nhớ bữa còn ở bản Nà Cháo, một buổi tối, tôi đang nằm nghỉ sau một ngày đào hầm xây dựng trận địa thì thằng Đam ở đâu về. Nó đưa cho tôi hơn chục miếng bìa cứng có những ký hiệu bằng chữ và số được để trong túi giấy bóng kính cẩn thận. Nó bảo:
- Đây là mã số của từng người trong tiểu đội vô tuyến. Mày nhớ dặn mọi người luôn luôn để trong túi áo nhé! Phòng khi...
Nghe thằng Đam nói tôi hiểu. Những tấm bìa này ghi mã số của từng người để khi ai hy sinh thì chôn theo, sau này còn biết danh tính liệt sĩ. Nếu tôi nhớ không nhầm thì mã số của tôi ngày ấy là JA-301.
Hôm ấy, sau khi đưa cho tôi những miếng bìa ghi mã số để đánh dấu mộ chí khi cần thiết xong thằng Đam bỗng thần mặt ra một lúc rồi hỏi:
- Không biết sau trận này mình có được ra quân về đi học tiếp không nhỉ?
- Chắc chắn rồi! Mày cứ yên tâm...
Tôi an ủi nó nhưng chính tôi cũng không tin ở lời mình lắm.

Tối hôm nay, thằng Đam lại nói về chuyện học hành. Tôi thấy thương nó quá. Tôi mong chiến tranh sẽ không bao giờ xảy ra để những người lính ham học như thằng Đam còn có được cơ hội bước vào giảng đường đại học...

(còn nữa) Hà Nội, tháng 2-2020



CAO BẰNG - 1979 (phần 5)
Ghi chép của Trọng Bảo


Đêm đã về khuya. Anh em trong tiểu đội đã ngủ yên. Mấy người đi đổi gác. Tôi mở cuốn sổ nhỏ ra soi đèn pin ghi chép tóm tắt tình hình trong ngày. Hôm nay đã là ngày 16-2-1979. Vậy là chúng tôi đã có mặt ở biên giới gần sáu tháng rồi. Cuốn sổ ghi chép của tôi đã ghi được rất nhiều sự kiện, nhiều chuyện buồn, chuyện vui ở nơi tuyến đầu này. Những kỷ niệm tháng ngày quân ngũ gian khổ như cộm lên trên từng trang giấy. Chiến tranh đang chờ đợi ở phía trước, cánh lính tráng ở nơi tuyến đầu chúng tôi chưa biết tương lai rồi sẽ như thế nào?
Khi tôi vừa ngả người xuống sàn nhà định chợp mắt một lát thì trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi chạy đến gọi dậy và ra lệnh rất gấp gáp:
- Tiểu đội vô tuyến triển khai ngay các tổ đài xuống các đơn vị! Khẩn trương lên. Đúng 12 giờ đêm phải thông mạng liên lạc vô tuyến điện. Rõ chưa?
Tôi vừa dụi mắt vừa hỏi lại Mùi:
- Lại báo động kiểm tra phương án sẵn sàng chiến đấu như những lần trước à?
- Kiểm tra gì? Mệnh lệnh chiến đấu thật đấy… - Mùi hạ giọng nói tiếp: - Trinh sát bám đường biên vừa báo cáo về: Bọn Trung Quốc đã cắt phá hàng chục mét rào dây thép gai của ta trên tuyến biên giới chỗ gần cửa khẩu Bình Mãng. Bọn chúng cũng lùa, xua đuổi gần chục con trâu sang đất ta để phát hiện bãi mìn rồi. Rất có khả năng bọn chúng sẽ tấn công chúng ta đêm nay đấy… Ông cho triển khai mạng liên lạc vô tuyến điện thật khẩn trương nhé!
- Rõ rồi! Trung đội trưởng cứ yên tâm!
Tôi đáp và lập tức gọi anh em trong tiểu đội dậy giao nhiệm vụ mang máy vô tuyến xuống ngay các đại đội. Đã có phương án sẵn sàng chiến đấu nên các tổ đài lập tức lên đường ngay. Tiểu đội phó Vũ Văn Tự và Hoàng Quy xuống chốt Đại đội 10, Nguyễn Văn Châu và Hoàng Văn Phủng lên chốt của Đại đội 11, Trần Đức Đình và Phùng Văn Minh lên trận địa Đại đội 12 hỏa lực trên đỉnh núi đá. Nguyễn Văn Kếch và một chiến sĩ sang Đại đội 9. Tại sở chỉ huy tiểu đoàn chỉ còn tôi và chiến sĩ Hoàng Văn Mông.
Anh em chiến sĩ nhanh chóng lên đường làm nhiệm vụ. Hình như ai cũng hiểu tình hình khẩn trương lắm rồi. Trong khi chờ anh em triển khai lên trận địa của các đơn vị tôi dặn chiến sĩ Mông trực canh liên lạc rồi đeo súng nhảy xuống cầu thang nhà sàn đi ra con đường phía trước bản Cốc Vường ngược lên cửa khẩu Bình Mãng. Gặp thằng Tuất, tiểu đội trưởng ở trung đội vận tải, tôi hỏi:
- Tình hình thế nào rồi! Bọn mày đi đâu mà ba lô đeo gì nặng thế?
Nhận ra tôi, thằng Tuất vừa nói vừa thở vì đeo nặng:
- Có lẽ sắp đánh nhau thật rồi anh ạ! Bọn em đang gùi thuốc nổ lên cho công binh phá đường chặn xe tăng của bọn địch đây...
Thằng Tuất nói xong rảo bước đi luôn. Tôi nhìn theo cánh lính vận tải đang gùi thuốc nổ lên hướng biên giới mà trong lòng thấy thấp thỏm, ngổn ngang bao điều. Phía thị trấn bên kia biên giới đèn điện vẫn sáng rực, lấp lánh. Đêm nay biên cương sao có vẻ yên ắng hơn mọi đêm. Tôi có biết đâu chỉ vài tiếng nữa nơi đây sẽ vô cùng dữ dội, ác liệt. Cơn lũ xâm lược của bọn bành trướng sẽ tràn sang nước ta, tàn phá nơi mảnh đất địa đầu Tổ quốc Việt Nam...
Gần 12 giờ đêm, các tổ đài đã gọi về báo cáo đã đến đơn vị. Mạng liên lạc vô tuyến điện sóng cực ngắn trong tiểu đoàn đã được thông suốt. Tôi thấy yên tâm vì trong đêm tối các chiến sĩ của mình vẫn đến được các đơn vị an toàn tuyệt đối. Tôi lo nhất là tổ đài của Đình và Minh đêm tối phải leo dốc lên trận địa của Đại đội 12 trên núi cao. Con đường độc đạo lên núi cheo leo, có đoạn chỉ vừa bàn chân người đi, một bên là vách đá, một bên là vực sâu người và máy móc, vũ khí dễ mất an toàn, hỏng hóc. Tôi dặn dò các tổ đài phải luôn đảm bảo canh trực, khi tình huống chiến đấu xảy ra phải kiên quyết giữ vững thông tin liên lạc phục vụ chỉ huy tác chiến. Đoạn, tôi chạy đi báo cáo tình hình với trung đội trưởng và chỉ huy tiểu đoàn. Xong xuôi quay về nhà thì đã hơn một giờ sáng ngày 17-2. Mệt mỏi và buồn ngủ quá. Tôi ngả lưng xuống sàn kéo chăn đắp cho đỡ lạnh rồi ngủ thiếp đi.
Vừa chợp mắt được một lát thì tôi bất chợt giật nảy mình tỉnh giấc bởi hàng loạt tiếng nổ ầm ầm rất lớn. Ngôi nhà sàn tôi đang nằm rung chuyển. Tôi lẩm bẩm chửi: "Mẹ cha thằng Tàu khựa! Sao hôm nay chúng mày nổ mìn phá đá làm hầm hào công sự sớm thế, không để các ông mày ngủ một lát à?". Khi tôi vừa kéo cái chăn bông trùm kín đầu định ngủ tiếp thì nghe tiếng trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi quát rất to ở ngay dưới gầm nhà sàn:
- Bảo ơi dậy đi! Bọn Trung Quốc đánh đến nơi rồi mà mày vẫn còn ngủ à?
Nghe thấy thế tôi vội vàng bật ngay dậy. Tôi vớ lấy khẩu AK, khoác ba lô lên vai lao ra ngoài sàn nhà. Một chùm đạn pháo nổ gần làm ngôi nhà chao đảo khiển tôi hơi loạng choạng.
Bầu trời đêm sáng rực. Những luồng đạn pháo từ phía bên kia biên giới bắn sang xé toạc màn đêm ken dày đặc trên trời. Bọn xâm lược Trung Quốc đã nổ súng tấn công nước ta thật rồi vậy mà lúc nãy tôi còn nghĩ bọn chúng nổ mìn phá đá làm hầm hào công sự như mọi bữa. Tiếng súng pháo nổ râm ran, tiếng đường đạn rít lên bay rất gần, rất thấp, ánh chớp lửa bùng lên khắp xung quanh làm tôi hơi hoảng. Tội vội mở khóa nòng khẩu AK lên đạn vì tưởng bộ binh của địch cũng đang tràn đến. Nhưng rồi tôi trấn tĩnh lại được ngay. Tôi nghĩ đến việc phải đảm bảo thông tin thông suốt nhanh chóng cho việc chỉ huy chiến đấu. Tôi nhảy ào xuống đất. Chiến sĩ Mông cũng đeo chiếc máy thông tin vô tuyến 884 nhảy theo.
Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi tiếp tục gào to để tôi nghe rõ mệnh lệnh vì tiếng đạn pháo của bọn Trung Quốc nổ ầm ầm át cả tiếng người:
- Ra ngay hang Ma Gà! Vị trí của chỉ huy tiểu đoàn ở đấy. Khẩn trương triển khai thông tin phục vụ chỉ huy chiến đấu! Rõ chưa?
- Báo cáo, rõ...
Tôi cũng gào lên đáp lại rồi cùng chiến sĩ thông tin lao về hướng hang Ma Gà, nơi đặt sở chỉ huy chiến đấu của Tiểu đoàn 3.
Chúng tôi vừa chạy gằn, vừa bò từng đoạn. Nhiều khi phải nằm ép người lết dưới lòng con mương dẫn nước, nấp sau các bờ ruộng cao trên cánh đồng trống trải để tránh làn đạn từ phía bên kia biên giới bắn sang và cố gắng cơ động thật nhanh về vị trí chỉ huy của tiểu đoàn.
Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi chạy ở phía trước. Vừa chạy anh vừa quan sát, nghe tiếng pháo đầu nòng và liên tục gào lên bảo chúng tôi nằm xuống tránh đạn. Mịt mù khói lửa, tiếng nổ râm ran. Đạn pháo của địch bắt đầu bắn vào bản Cốc Vường, lửa cháy rừng rực. Chiến tranh tôi chưa từng trải qua nên chả biết pháo nó bắn thế nào, tiếng nổ đầu nòng, tiếng quả đạn rơi gần rú rít ra sao mà trú tránh, lúc nằm bẹp xuống mặt ruộng thì chả có quả pháo nào bắn tới, lúc vừa đứng dậy chạy thì nó nổ oành oành ngay trước mặt. Tôi giục người chiến sĩ của mình:
- Cứ chạy đi, pháo của nó đang bắn vào sâu trong đất ta. Chúng ta ở gần sát đường biên nó chưa bắn đâu mà sợ!
Tôi không nằm bò nữa mà cứ thế chạy về hướng hang Ma Gà mặc kệ tiếng nổ râm ran xung quanh.
Bầu trời một vùng biên giới sáng rực lên như ban ngày bởi những luồng lửa đạn của quân thù. Những luồng đạn giặc bay xé nát cả màn đêm. Tiếng đạn pháo quân thù đinh tai, chói óc, tiếng đạn súng 12ly7 từ trên mỏm núi cao ăn sâu vào đất ta bắt đầu quét ràn rạt trên cánh đồng các bản Cốc Vường, Cốc Nghịu. Tiếng nổ của đạn súng 12ly7 đáng sợ hơn cả tiếng pháo. Trong các bản làng tiếng người nháo nhác gào gọi nhau thảm thiết, tiếng kêu khóc hoảng loạn của những người dân chưa kịp đi sơ tán. Tiếng chó sủa, gà kêu, bò rống tan tác, vỡ đàn. Tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật.
Mọi thứ âm thanh hỗn độn hoà vào nhau trong khói lửa, mùi thuốc súng và cát bụi mù mịt. Đó là cảnh giờ phút đầu tiên của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc mà tôi đã được chứng kiến. Một cuộc chiến không thể lãng quên trong tâm trí của bao nhiêu người lính biên cương...
(còn nữa) Hà Nội, tháng 2-2020


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét