Thứ Ba, 19 tháng 10, 2021

Ghi chép NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

     NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

5-NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT

Buổi tối hôm đó tôi làm nhiệm vụ trực chiến tại vị trí chỉ huy của tiểu đoàn. Tôi tranh thủ viết một lá thư gửi về nhà. Ngày mai, có việc lên Đại đội 11 qua bưu điện thị trấn Sóc Giang thì gửi luôn. Đang cắm cúi viết thì trung uý Bùi Đức Hòe, chính trị viên phó tiểu đoàn từ đâu hớt hải chạy về lệnh cho tôi:
- Đem theo vũ khí trang bị theo tôi đi làm nhiệm vụ khẩn cấp ngay!
- Báo động chiến đấu ạ?
- Không hỏi nhiều! Đi ngay, khẩn trương lên!
Tôi vội buông bút, xách khẩu AK, vớ cái đèn pin đi theo chính trị viên phó tiểu đoàn. Ra tới đường tôi thấy có mấy người nữa đang đứng đợi. Đó là số cán bộ các bộ phận thuộc cơ quan tiểu đoàn bộ. Chúng tôi chạy gằn theo chính trị viên phó tiến về phía bản Cốc Nghịu. Đây là một bản nhỏ sát biên giới với hơn chục nóc nhà sàn nằm rải rác sát chân núi đá, gần con đường mòn ngược lên Lũng Mật. Khi tình hình địch căng thẳng nên bà con dân bản đều đi sơ tán hết. Ban ngày trẻ con, người già không được về bản, chỉ có những người còn sức lao động về chăm sóc lợn gà và làm ruộng, vườn. Ban đêm chỉ còn lại lực lượng dân quân làm nhiệm vụ tuần tra canh gác bảo vệ bản và sẵn sàng chi viện cho bộ đội vận chuyển đạn dược, đem cơm lên trận địa và khênh cáng thương binh về tuyến sau khi chiến tranh nổ ra.
Gió bắc thổi ù ù qua thung lũng. Lạnh quá khiến tôi chợt run lên, hai hàm răng va vào nhau lộp cộp.
Chúng tôi lặng lẽ tiến về hướng một ngôi nhà sàn ở mãi phía cuối bản Cốc Nghịu. Tôi thấy rất hồi hộp, trống ngực đập mạnh. Mới đầu tôi cứ nghĩ là đi làm nhiệm vụ vây bắt bọn phản động, chỉ điểm, hoặc thám báo Trung Quốc từ bên kia biên giới mò sang trinh sát trận địa của ta. Đến nơi mới biết chúng tôi đi làm “nhiệm vụ đặc biệt” là bắt “quả tang” một cán bộ đại đội thuộc Tiểu đoàn 3 đang ngủ với con gái bản. Khi đã rõ câu chuyện nên lúc vào đến sân nhà cô gái (cô bé này cũng là một dân quân), tôi liền kiếm cớ xin đứng dưới sân cảnh giới mà không leo lên nhà sàn, ập vào để bắt quả tang tại chỗ những kẻ “quan hệ bất chính”, “hủ hoá”, “sa đọa” theo như mệnh lệnh của chính trị viên phó tiểu đoàn vừa thì thào phổ biến.
Chính trị viên phó Hòe và mấy cán bộ nhẹ nhàng áp sát cầu thang ngôi nhà sàn. Trong nhà có ánh đèn leo lét và hình như có tiếng người rì rầm, tiếng cười khúc khích. Khi mấy người đi bắt kẻ “hủ hoá” vừa bước lên cầu thang thì ánh đèn trong nhà đột nhiên vụt tắt. Chắc là những người trong nhà đã nghe tiếng động bên ngoài. Chính trị viên phó vội nhảy lên đập cửa. Phải một lúc sau chủ nhà mới ra mở cửa. Đó là một cô gái còn rất trẻ. Những ánh đèn pin đồng loạt bật lên sáng rực. Đứng dưới sân tôi vẫn nhìn thấy rõ trang phục cô gái xộc xệch. Đó quả là một người con gái rất đẹp. Cô gái một tay giữ ngực áo, một tay giơ lên che mắt vì chói ánh đèn. Sau này tôi mới biết cô ấy tên là Lê và cũng là tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân của bản.
Đèn trong nhà được thắp lên. Ánh đèn pin soi khắp nhà. Nghe bập bõm tiếng ông chính trị viên phó tiểu đoàn và mấy cán bộ trao đổi với nhau, tôi hiểu họ là họ đã phát hiện ra một đôi giày bộ đội để cạnh đôi dép của cô gái dưới chân giường. Có lẽ họ đang căn vặn cô gái. Giữa lúc đó, tôi chợt nghe tiếng động rất nhẹ trên mái ngói. Tôi liền bấm đèn pin rọi lên mái ngôi nhà sàn. Ánh đèn pin soi rõ một người mình trần như nhộng đang ngồi thu lu trên mái. Tôi nhận ngay ra đó là trung uý B. Trung uý B. đang một tay bám vào cành cây mít sà xuống sát mái nhà, một tay ôm quần áo cố thu người nấp vào tán lá cây. Thấy ánh đèn pin rọi lên mái nhà, trung úy B. vội xua xua tay có vẻ cầu cứu? Tôi vội tắt ngay đèn pin và hô thật to:
- Có người… có người…
- Đâu… đâu… đâu?
Tôi ra vẻ hớt hải:
- Có người ở... ở… ở…
Chính trị viên phó Hòe từ trong nhà sàn chạy ra cửa quát hỏi:
- Ở đâu… ở đâu?
Tôi ấp úng:
- Ở… vừa… vừa ở đây… nhưng chạy ra phía bờ suối rồi!
- Bắt… bắt… lấy… ngay… Đuổi... đuổi… theo ngay... còn đứng đấy làm gì hả?
Ông chính trị viên phó tiểu đoàn quát tôi. Mấy cán bộ từ trong nhà cũng vội lao ra. Họ nhảy lụp bụp từ trên sàn xuống đất soi đèn hô nhau đuổi ra hướng bờ suối. Tôi cũng vội xách súng co giò phóng theo. Vừa chạy, tôi vừa cố nén tiếng cười khùng khục trong cổ họng khi nghĩ đến cảnh anh B. đang trần trụi như nhộng ngồi co ro trên nóc nhà hun hút gió bắc rét lạnh đến sun vòi. Tôi nghĩ, ông trung uý trẻ và đẹp trai này khéo chẳng chết vì gái mà lại chết cóng vì rét mất. Cũng may mà lúc nãy anh ấy thính tai nghe thấy có tiếng động ở cầu thang kịp chui qua cửa sổ đu bám được vào cành mít leo lên mái nhà...
Ngày hôm sau, tôi lên Đại đội 11 làm việc đến gần trưa mới quay về Nà Cháo. Lúc về đến chợ thị trấn Sóc Giang thì đã quá trưa. Tôi đang ngó nghiêng ở dãy hàng quán lèo tèo gần cổng chợ tìm mua cái gì ăn tạm cho đỡ đói thì có ai đó từ phía sau chộp lấy vai mình vặn một cái đau điếng. Tôi quay lại. Té ra là trung uý B. Anh B. nhìn tôi chằm chằm một lúc rồi mới hỏi:
- Tối hôm qua… tại sao… tại sao ông lại cứu tôi?
Tôi cười cười rồi bảo anh:
- Em chỉ muốn cứu lấy một tình yêu thôi... hi… hi…
Anh B. gãi gãi đầu:
- Tối qua lúc ông kêu có người làm tôi sợ toát hết cả mồ hôi. Lúc ấy cứ tưởng là ông sẽ chỉ cho họ biết là tôi đang ở trên mái nhà...
Tôi liền trêu:
- Cởi trần trùng trục ngồi trên mái nhà, gió bắc thổi ào ào rét thế mà anh cũng toát mồ hôi được cơ à?
Anh B. cười hì hì:
- Đúng thế! Bị một phen sợ toát cả mồ hôi... Tối hôm qua ông mà không kêu có người chạy ra hướng bờ suối thì tôi nhất định sẽ bị lộ hoặc sẽ chết rét trên mái nhà mất… Hì…ông… ông đúng là một con người tốt!
Tôi nhăn mặt:
- Tốt gì! Chính trị viên phó tiểu đoàn mà biết chuyện cố ý đánh lạc hướng để giải cứu người trong khi đang “làm nhiệm vụ đặc biệt” thì em cũng toi luôn! Ông ấy đang rất cáu vì cuộc vây bắt tối hôm qua thất bại đấy!
- Hì… đúng thế! Thôi vào đây làm bát phở cho ấm bụng cái đã!
Anh kéo tôi vào quán phở rồi kêu ông chủ quán:
- Làm ngay hai bát loại đặc biệt. Cho thêm nhiều nhiều thịt vào nhé!
Nhìn nét mặt hứng khởi của anh B. tôi nheo mắt rồi hỏi:
- Cái cô dân quân ấy thật là đẹp anh nhỉ?
Anh nháy mắt:
- Đẹp và còn nóng bỏng, dữ dội nữa chứ… Hì, ăn đi!
Tôi bảo:
- Lần sau anh nhớ phải thật cẩn thận đấy!
Anh B. gật gật đầu. Ánh mắt anh nhìn tôi với vẻ biết ơn.
Kể từ bữa đó anh B. coi tôi như một người bạn thân. Anh rất quý tôi. Mặc dù anh hơn tuổi và nhập ngũ trước tôi. Tôi cũng rất quý anh. Anh là lớp cán bộ trưởng thành từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Quê anh ở Cao Bằng. Anh có nhiều thành tích trong chiến đấu nhưng phải cái tính hay hoa lá cành, thấy gái là tít mắt lại nên con đường công danh hơi lận đận trắc trở. Mà cũng lạ, con gái vừa mới nhìn thấy cái dáng to cao, đẹp trai ngời ngời của anh đã mê tít. Chuyện tình của anh khá nhiều. Nghe đồn đâu anh từng yêu con gái một ông tham mưu phó quân khu. Nhưng rồi giữa hai người xuất hiện mâu thuẫn nên đã chia tay nhau. Ông cán bộ quân khu ấy rất căm anh vì anh đã lấy mất cái quý giá nhất của cô con gái cưng mà không chịu cưới. Có lẽ vì đó mà cái quyết định thăng quân hàm và chỉ tiêu đi học Học viện Lục quân định dành cho anh bị tiêu luôn. Anh được điều động về làm cán bộ đại đội tại đơn vị đang làm nhiệm vụ ở tuyến trước.
Khi đã thân thiết với nhau rồi một hôm anh hỏi:
- Mày chưa biết con gái khỏa thân và... "cái ấy" của chị em nó như thế nào phải không?
Tôi giật nảy mình lắc đầu. Anh bảo:
- Hôm nào lên Lũng Mật tao cho xem mấy cái ảnh con gái khỏa thân. Đẹp lắm nhé! Nhưng phải hết sức bí mật, lộ ra là chết cả lũ đấy. Lão chính trị viên phó mà biết là tàng trữ văn hoá phẩm đồi trụy thì toi luôn, hiểu không?
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì anh như chợt nhớ ra dặn thêm:
- Nghe nói mày là người giỏi văn chương, chữ nghĩa. Hôm nào mày làm giúp tao một bài thơ để tao tặng cho em Lê nhé. Em ấy rất thích văn chương, hay đọc sách, rất mê thơ ca mà khoản này thì tao lại dốt đặc.
Tôi nhìn anh rồi chẳng hiểu sao lại gật đầu đồng ý.
Mấy hôm sau, tôi đã viết xong cho anh B. một "bài thơ tình yêu" để anh đem tặng cho em Lê xinh đẹp. Bài thơ ấy như sau:
“Tình yêu từ quả táo của Thị Mầu
Từ ánh mắt Chí Phèo đêm trăng ấy
Tình yêu là ngọn lửa hồng bỏng cháy
Đã đốt thiêu bao nhiêu kiếp người
Tình yêu cũng là một trời tuyết rơi
Làm cho những cuộc đời băng giá lạnh.
Tình yêu còn là niềm tin, sức mạnh
Để những người vượt lên số phận tật nguyền
Nhưng tình yêu khiến bao kẻ cuồng điên
Biến thành thiêu thân trong phút chốc.
Tình yêu là cội nguồn hạnh phúc
Song cũng là khởi điểm của khổ đau.
Bao nhiêu kẻ chỉ biết yêu nhau
Mà không biết đang đi trên miệng vực,
Nhưng khi trong ta con tim rạo rực
Thì cần gì nghĩ lo hậu quả ngày mai…
Định nghĩa tình yêu vẫn mãi nối dài,
Mặc dù tình yêu ai mà chẳng biết?
Nhưng chắc chắn bạn sẽ như là đã chết
Nếu trong lòng nguội lạnh một tình yêu…”.
Đọc xong bài thơ, anh B. cứ suýt xoa mãi:
- Hay! Hay quá! Mày đúng là dân văn chương, chữ nghĩa.
Anh nhìn tôi chằm chằm một lúc rồi nói thêm:
- Mẹ kiếp! Nếu mà không có cuộc chiến tranh và cái thằng Tàu khựa chết tiệt này thì tốt biết bao nhiêu. Mày sẽ không phải lên đây rồi mà được học hành đến nơi đến chốn chắc chắn sẽ làm nên cơm cháo đấy. Nhất định là em Lê cũng sẽ thích bài thơ này cho mà xem.
Ngập ngừng một lát anh nói thêm:
- Này! Giá mà để lão chính trị viên phó tiểu đoàn mình đọc được bài thơ này nhỉ?
Tôi chột dạ:
- Đọc được có mà ông ấy cạo trọc đầu em à?
- Hì… đúng thế!
Anh B. cười hì hì. Anh xiết chặt tay tôi rồi đi về hướng bản Cốc Nghịu. Đôi chân của anh leo dốc trông cứ nhẹ lâng lâng, khẩu súng ngắn đập lạch xạch bên hông.
Tôi mỉm cười nhìn theo một kẻ đào hoa si tình cho đến lúc bóng anh khuất hẳn sau chỗ ngoặt trên con đường nhỏ ở chân núi.
Chưa có dịp gặp lại anh B. để hỏi anh xem em Lê có thích bài thơ của tôi không thì cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Sau này tôi còn được biết là sáng hôm xảy ra chiến tranh khi súng nổ được một lúc anh B. mới từ dưới chân núi hối hả chạy lên trận địa của đơn vị trên núi cao. Trên người anh mặc độc một cái quần lót. Anh lao ngay vào vị trí chỉ huy đơn vị chiến đấu luôn…
Cao Bằng - 1979
Hà Nội, 10-2021
Ghi chép của Trọng Bảo
Có thể là hình ảnh về núi

Thứ Hai, 18 tháng 10, 2021

Ghi chép NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

     NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

4-TẾT Ở BIÊN CƯƠNG

Sắp đến Tết nguyên đán. Những ngày cuối năm âm lịch trời hanh khô nhưng rét đậm. Tiểu đoàn 3 chúng tôi nhận được lệnh tổ chức cho bộ đội ăn Tết nguyên đán trước. Trong những ngày Tết bộ đội sẽ lên chốt trực chiến canh gác, bảo vệ cho nhân dân đón Tết, vui xuân. Vậy là bốn năm rồi trong cuộc đời quân ngũ tôi đều ăn Tết tại đơn vị. Cái tết đầu tiên là ở Đại Từ, Thái Nguyên, tết thứ hai ở Tuyên Quang, tết thứ ba ở giữa rừng già Bắc Quang, Hà Giang và tết này thì ở chốn biên cương Hà Quảng, Cao Bằng. Gần Tết chúng tôi không còn ở nhà cô Huyền bên kia đường nữa mà được lệnh phân tán vào ở trong các dân sát chân núi đá.
Đơn vị tổ chức gói bánh chưng từ ngày 26 Tết. Dân bản chưa bận làm bánh tết nên rất đông các bà, các chị, các em gái kéo đến giúp bộ đội gói bánh. Thật là vui. Tôi trông thấy em Huyền đang cùng mấy chị em đãi gạo nếp, rửa cắt lá dong. Em Huyền đúng là “hoa khôi” của bản Nà Cháo như cánh lính vẫn nói với nhau. Trông cô gái nổi bật nhất đám thanh nữ. Bếp nấu bánh trưng được đặt ngay góc thửa ruộng cạn bên bờ suối. Đang là mùa khô nên chả cần che lợp gì. Chúng tôi sẽ cắt phiên nhau thường trực đun bánh cả đêm.
Thế nhưng khi nồi bánh nước chưa kịp sôi thì lại có lệnh báo động chiến đấu, các đơn vị cơ động lên trận địa. Trừ bộ phận hậu cần ở lại bản nấu bánh, nấu cơm đem lên trận địa còn tất cả chúng tôi nhanh chóng phóng về nhà lấy vũ khí trang bị, mang ba lô tập trung hành quân lên chốt. Các bộ phận hối hả chạy ra đường tập trung. Ở trung đội thông tin khi báo động chiến đấu có lẽ tôi là người “nhàn nhất”. Bởi vì khi có mệnh lệnh chiến đấu thì tiểu đội vô tuyến điện của tôi lập tức chia thành các tổ đài cơ động ngay xuống các đại đội để đảm bảo thông tin liên lạc. Tại cơ quan tiểu đoàn bộ chỉ còn một tổ đài phục vụ chỉ huy tiểu đoàn. Tôi lúc này trở thành tổ trưởng một tổ ba người. Tôi đeo súng khoác ba lô đi cuối đội hình của trung đội thông tin. Anh em các tiểu đội hữu tuyến đeo dây máy súng đạn lỉnh kỉnh leo lên điểm cao 505. Tôi gặp Hà Trung Lợi, tiểu đội trưởng hữu tuyến ở lưng dốc. Hà Trung Lợi là người Mường, quê ở Thanh Sơn, Phú Thọ. Vừa trông thấy tôi thằng Lợi đã hỏi ngay:
-Tao tưởng mày văn hay, chữ tốt nên ở lại bản làm nốt tờ báo tường “Mừng Xuân đón tết” cho trung đội ta cơ mà?
Tôi vừa thở vừa nói:
-Báo tường với báo tiếc làm cái mẹ gì nữa! Đánh nhau đến nơi rồi mày biết không?
Thằng Lợi chưa kịp hỏi thêm gì thì có tiếng người nói ngay phía sau lưng:
-Ai bảo là “đánh nhau đến nơi rồi”? Mà có đánh nhau thì tết đến, xuân về báo tường vẫn cứ phải làm, bánh vẫn cứ gói. Rõ chưa?
Tôi và thằng Lợi giật mình quay lại. Hóa ra đó là chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Quốc Doanh đang đi ở phía sau. Anh Doanh nhìn chúng tôi rồi nói thêm:
-Mà hai thằng chúng bay liệu hồn đấy! Tao nghe nói là hai thằng chúng mày rất liều lĩnh, vô kỷ luật. Việc thằng Bảo hôm trước phóng xe mô tô lên cửa khẩu Bình Mãng tao còn chưa “hỏi tội” đâu đấy…
Tôi ấp úng:
-Vâng… vâng… em sẽ rút kinh nghiệm ạ…
-Hừ… - Chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Quốc Doanh gườm gườm nhìn tôi rồi đi vượt lên phía trước đội hình hành quân.
Đến vị trí chỉ huy của tiểu đoàn trên đỉnh 505 chúng tôi nhanh chóng tìm chỗ đặt máy vô tuyến, căng dây an-ten rồi mở máy thông mạng liên lạc toàn tiểu đoàn rồi mới tìm chỗ dưới giao thông hào để ngủ nghỉ qua đêm trên chốt.
Mãi đến cuối buổi chiều hôm sau, khi tôi đang ngồi trong hầm lúi húi ghi chép thì Nguyễn Văn Đam, tiểu đội trưởng tiểu đội truyền đạt chạy đến thông báo lệnh của trung đội trưởng:
-Hạ cấp báo động rồi! Mày cho anh em lên vị trí tập trung của trung đội để hành quân trở về bản Nà Cháo nhé!
Tôi vội đứng dậy nói với thằng Đam:
-Thế thì tốt quá rồi! Tết nhất đến nơi rồi mà còn giở dói ra đánh nhau thì… mất cả tết.
Thằng Đam bảo:
-Có lẽ là bọn Trung Quốc nó cũng đang bận chuẩn bị ăn tết mày ạ! Ta với nó đều ăn tết âm lịch đấy.
Tôi nói với thằng Đam:
-Mẹ kiếp! Nó chủ động, mình thì bị động. Nó có biểu hiện gì khang khác một tý là ta lập tức lại phải lo đối phó, đề phòng. Cứ liên tục báo động chiến đấu, cơ động lên lên, xuống xuống trận địa mãi thế này thì cũng mất tết luôn đấy!
-Thì phải luôn cảnh giác, sẵn sàng chứ! Chúng ta đang ở ngay trước mũi súng của nó thế này mà... Thôi, hạ cấp báo động chúng ta cứ về bản ăn tết cái đã.
Khi chúng tôi hành quân về đến bản Nà Cháo thì các tổ đài vô tuyến đi tăng cường cho các đại đội cũng lục tục trở về. Chỉ riêng tổ đài tăng cường cho Đại đội Hỏa lực 12 tít trên Lũng Mật là chưa về đến Nà Cháo vì đường xuống núi rất dốc và xa. Vừa đặt ba lô xuống thì nhận được thông báo của hậu cần tiểu đoàn, tiểu đội phó Vũ Văn Tự vội gọi mấy chiến sĩ cùng đi nhận bánh chưng. Bộ đội ngày ấy khi tết đến ngoài số bánh chưng để lại liên hoan ăn tết chung tại nhà bếp thì mỗi người được chia một cái bánh mang về muốn ăn lúc nào thì ăn. Cái bánh chưng ấy coi như là quà tết của chiến sĩ. Tiểu đội phó Tự mang bánh trưng về rồi gọi tôi sang lấy bánh. Trời đã chập choạng tối. Nhìn đống bánh chưng xếp trên sàn nhà tôi liền hỏi:
-Sao lại có hai cái bánh chưng gì to thế hả?
-Không phải bánh đâu anh ạ! Đấy là hai tấm vải liệm. Hậu cần tiểu đoàn vừa mới cấp phát cho tiểu đội ta…
Tôi nhăn mặt làu bàu:
-Mấy thằng hậu cần tiểu đoàn chả ra làm sao… Tết nhất cấp bánh chưng lại cấp luôn cả vải liệm liệt sĩ nữa, ăn bánh mất cả ngon.
Thằng Tự vội phân bua:
-Không phải thế đâu anh ạ! Số vải liệm này họ đã cấp cho các bộ phận từ mấy hôm trước rồi. Tiểu đội ta do phân tán xuống các đơn vị nên chưa nhận. Hôm nay lên lấy bánh chưng họ đưa cho nên em nhận đem về luôn…
Nghe Tự nói như vậy tôi hỏi:
-Thế đã giao cho anh em nào giữ chưa?
-Chưa anh ạ! Thấy hai tấm vải liệm thằng nào cũng sợ, lảng hết. Không ai muốn giữ nó anh ạ!
Tôi bảo:
-Đó chỉ là những tấm vải mới tinh, việc gì mà sợ… Thôi, hai tấm vải liệm, tiểu đội trưởng, tiểu đội phó mỗi thằng chúng mình giữ một tấm…
Nói đoạn, tôi cầm cái bánh chưng và một tấm vải liệm xuống bậc thang đi về nhà ở của mình. Về đến nhà tôi mở tấm vải liệm ra gấp lại cho gọn. Đó là một tấm vải màu xanh mỏng hình chữ nhật gần giống cái vỏ chăn đơn nhưng người ta chỉ may kín hai cạnh liền kề nhau, để hở hai cạnh kia. Tấm vải có đính sẵn ba đoạn dây cũng làm bằng vải ở giữa và hai đầu. Khi khâm liệm chỉ cần đặt xác người vào gấp lại và dùng ba giải dây đó để buộc ngang bụng, buộc cổ và buộc chân là xong, rất nhanh gọn.
Khi tôi đang cho tấm vải liệm vào ba lô thì thằng Đam đến. Nó đưa cho tôi một nắm bìa cắt nhỏ chỉ bằng hai ngón tay và bảo:
-Đây là các mã số của anh em trong tiểu đội vô tuyến. Mày dặn mọi người nhớ là phải luôn để trong túi áo nhé!
Tôi hiểu, để phòng tình huống xấu xảy ra trong chiến đấu, mỗi người chúng tôi đều có một mã số riêng thêu trên nắp túi áo bên trái và in vào mảnh giấy bìa nhỏ bằng ba đầu ngón tay bỏ trong túi giấy bóng dán kín cho khỏi ướt. Bộ đội phải luôn để mảnh giấy ghi mã số riêng của mình trong túi quần, túi áo phòng khi ai hy sinh thì chôn theo để sau này còn xác định danh tính (Nếu không nhớ nhầm thì mã số của tôi ngày ấy là JA-01)…
Vậy là đón Tết ở biên cương phía Bắc này chúng tôi được cấp bánh chưng, vải liệm và mã số để đánh dấu mộ chí của mình… Một cái tết của người lính biên thùy thật là đặc biệt và mang một nỗi buồn ảm đạm, không ai mong đợi. Nhưng biết làm sao được? Chiến tranh là như vậy, không thể nào khác...
Cao Bằng - 1979
Hà Nội, 10-2021
Ghi chép của Trọng Bảo
Có thể là hình ảnh về thiên nhiên, cây và núi

Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2021

Ghi chép NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

     NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

3-CỬA KHẨU BÌNH MÃNG

Một hôm, tôi đang ngồi chuẩn bị giáo án huấn luyện bộ môn vô tuyến điện tại nhà ở thì có tiếng xe máy ùng ục rú lên ngay dưới sàn nhà. Tôi ra cửa nhà sàn ngó nhìn xuống thì thấy thằng Long và thằng Ký, lính truyền đạt của đại đội thông tin trung đoàn đang ngồi trên chiếc xe mô tô ba bánh sơn màu rêu xanh vẫn còn đang nổ máy. Thằng Long “ruồi” ngó lên nhận ra tôi liền gọi to:
-Bảo ơi! Mày đưa bọn tao lên cửa khẩu Bình Mãng nhé!
Tôi liền hỏi lại:
-Lên làm gì thế?
-Thì… bọn tao lên đây bao ngày rồi mà có biết biên giới, cửa khẩu thế nào đâu. Đưa chúng tao đi xem một tý…
Tôi nhảy xuống đất và nói:
-Tao cũng đã lên cửa khẩu lần nào đâu. Để tao dẫn chúng mày đi…
Thằng Ký cầm lái, thằng Long ngồi phía sau. Hai thằng bảo tôi ngồi vào thùng xe. Chúng tôi phóng xe lên hướng cửa khẩu Bình Mãng. Vừa đi chúng tôi vừa hỏi thăm nhau. Đã lâu lắm rồi chúng tôi mới gặp lại nhau. Tôi, thằng Long và thằng Ký vốn đều là lính của Đại đội Thông tin 17, Trung đoàn 246 từ thời còn đóng quân ở Đại Từ, Thái Nguyên. Hai thằng này là lính quân bưu còn tôi là lính 2W. Khi tôi về Tiểu đoàn 3 thì chúng nó vẫn ở trung đoàn. Hôm nay, hai thằng mang công văn, văn kiện của trung đoàn lên cho chỉ huy Tiểu đoàn 3. Xong việc bọn chúng chợt nhớ ra tôi đang ở Tiểu đoàn 3. Hai thằng tìm và rủ tôi cùng lên tham quan cửa khẩu biên giới. Lần đầu tiên được ngồi trên chiếc mô tô ba bánh phóng trên đường biên giới tôi vô cùng thích thú. Qua khỏi trường cấp 1+2 Sóc Giang thì chúng tôi gặp một toán nữ thanh niên xung phong đi rào biên giới về đang ngồi nghỉ bên đường. Thằng Ký cho xe đi chậm lại. Một cô gái to béo gọi to:
-Anh bộ đội lái xe bình bịch ơi! Anh cho xe đi chầm chậm thôi nhé kẻo “nhỏ nhẹ” như anh gió nó thổi bay mất đấy!
-Mà… bay luôn sang Trung Quốc mất thì không ai đền được đâu!
Một cô khác nói thêm. Cả bọn cười ré lên. Thằng Ký biết là các cô gái có ý châm chọc nó là một anh bộ đội còi, gió thổi bay. Thằng này thân hình đùng là khá gầy gò nhỏ bé. Khi nó cầm lái chiếc mô tô ba bánh cồng kềnh trông như đứa trẻ con cưỡi một chú trâu mộng. Thằng Ký nghe các cô gái trêu chọc không tỏ vẻ gì bực mình, tự ái. Nó liền giảm tốc độ, cua xe sát chỗ đám thanh niên xung phong đang ngồi nghỉ rồi nói to:
-Em ơi! “Đừng chê anh bé mà sầu/ Con ong nó đốt quả bầu cũng… sưng”… Khi nào hết chiến tranh chúng mình thử xem có đúng không nhé!
Đám thanh niên xung phong lại cười nghiêng ngả. Mấy cô đứng bật ngay dậy định nhào ra chặn chiếc xe. Thằng Ký vội tăng ga cho xe phóng lướt đi. Phóng qua bản Cốc Vường, chúng tôi đến bản Nà Sác. Trận địa phòng ngự của Đại đội 11 trên hai quả đồi đất có hai cây đa cổ thụ. Phía bên phải cánh đồng bản Nà Sác là dãy núi đá chạy liền một dải sang đất ta. Trên một mỏm núi đá ăn sâu vào cánh đồng Nà Sác là cái lô cốt Tàu Tưởng to lù lù với các lỗ châu mai đen sì trông như những con mắt cú vọ luôn nhòm ngó, soi mói xuống cánh đồng và từng ngôi nhà trong bản Nà Sác của ta.
Trạm kiểm soát cửa khẩu của công an vũ trang là ngôi nhà cấp bốn nằm nằm trơ chọi giữa cánh đồng, cách đường biên vài mét. Mặt tiền của ngôi nhà nhìn ra đường, đầu đốc hướng về phía biên giới. Phía bên kia biên giới là khu nhà cao tầng. Trung Quốc xây nhà sát đường biên giới, hết phần đất của họ. Biên giới giữa hai nước ở giữa cánh đồng này chỉ là con mương nước nhỏ rộng độ một mét. Chúng ta đã rào kín cửa khẩu và đoạn biên giới trên cánh đồng bản Nà Sác. Hàng rào biên giới có ba lớp. Phía trước là rào bằng tre nứa, tiếp sau là lớp rào dây thép gai và chông tre, chông sắt.
Thằng Ký lái chiếc xe mô tô ba bánh đến sát biên giới rồi vòng lại tạt vào đỗ ở giữa sân trạm kiểm soát của công an vũ trang (sau này Công an vũ trang đổi tên thành Bộ đội Biên phòng). Trạm kiểm soát của công an vũ trang đã rút phần lớn lực lượng về phía sau kể từ khi tình hình biên giới bắt đầu căng thẳng. Tại trạm chỉ còn một tổ canh gác ban ngày, ban đêm thì bí mật lui về phía sau đề phòng bọn Tàu lẻn sang tập kích bất ngờ. Một chiến sĩ công an vũ trang đưa chúng tôi vào trạm. Anh dẫn tôi vào căn phòng đầu nhà hướng sang phía Trung Quốc. Bức tường trong phòng phía biên giới được xây dày gần một mét bằng bê tông cốt thép, có các ô cửa sổ gần giống như lỗ châu mai. Căn nhà làm trạm kiểm soát biên giới này xây dựng đã lâu, từ khi hai nước Việt - Trung còn là anh em, đồng chí hữu hảo. Hóa ra ngay khi tình hữu nghị còn rất mặn nồng, cùng phe XHCN như thế mà ta vẫn phải cảnh giác, đề phòng. Bức tường đầu đốc của trạm kiểm soát biên giới này sẽ là “chiến lũy, lá chắn” tạm thời khi bị tấn công bất ngờ bằng súng bộ binh hạng nhẹ.
Sau khi tham quan cửa khẩu Bình Mãng, chúng tôi chia tay các chiến sĩ công an vũ trang quay về. Thằng Ký và thằng Long đưa tôi về đến đầu bản Nà Cháo thì quay xe ngược trở lại thị trấn Sóc Giang để về đơn vị. Tôi vừa về đến nhà ở của tiểu đội thì thấy trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi đang đứng đợi. Vừa nhìn thấy tôi Mùi đã nói ngay:
-Sao chúng mày liều thế! Dám nghênh ngang phóng xe mô tô lên tận sát biên giới. Lỡ bọn Trung Quốc từ trên lô cốt Tàu Tưởng nó ngứa mắt bắn cho một loạt thì tan xác hết. Chỉ huy tiểu đoàn đang cáu lắm. Các ông ấy cho gọi mày lên để tường trình đấy. Mày liệu mà giải thích, hiểu không?
Tôi lo lắng thập thõm bước qua con đường nhỏ lên nhà chỉ huy tiểu đoàn. Tôi hiểu việc tự ý lên biên giới là sai và nguy hiểm, không khéo phen này sẽ bị kỷ luật như chơi. Tôi bước vào nhà chỉ huy. Chính trị viên tiểu đoàn, thượng úy Hoàng Quốc Doanh gườm gườm nhìn tôi. Nhưng anh chưa kịp nói gì thì có chuông điện thoại. Nghe xong điện thoại anh vội bảo tôi: “Về đơn vị ngay, nhanh lên! Có lệnh của trung đoàn, báo động chiến đấu…”.
Cao Bằng - 1979
Hà Nội, 10-2021
Ghi chép của Trọng Bảo
Ảnh: Cửa khẩu Sóc Giang - Bình Mãng (Hà Quảng, Cao Bằng) hiện nay.
Có thể là hình ảnh về ngoài trời