Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

Truyện ngắn BI KỊCH PHỐ (phần 1)










BI KỊCH PHỐ

Truyện ngắn của Trọng Bảo
 
          Giữa khu tập thể toàn nhà tự xây dần mọc lên một chung cư hơn ba mươi tầng cao ngất ngưởng.

Nơi khu chung cư tọa lạc vốn là khu trường mẫu giáo của cơ quan tôi. Lúc đầu người ta cũng định phân lô bán nền cho cán bộ tự xây nhà ở. Sau vì số người có nhu cầu nhà ở nhiều quá nên cơ quan quyết định lập dự án xây chung cư, giải quyết nhà ở cho hơn hai trăm cán bộ lại còn dành ra được một khoang trống làm sân sinh hoạt chung cho cả khu dân cư. Tôi cũng được phân một căn hộ. Do có thâm niên nhiều năm công tác tôi được mua một căn hộ có diện tích hơn một trăm mét vuông. Tôi phát hoảng, lấy tiền đâu mà nộp vào dự án. Sau nhiều lần đề nghị, tôi được chuyển xuống một căn hộ với diện tích hơn sáu mươi mét vuông tầng bốn. Vợ chồng con cái thở phào. Tích cóp bấy lâu, bán thêm hai con trâu ở quê cũng vừa đủ nộp tiền lần thứ nhất khi công trình xây xong phần móng. Nhiều người không có tiền tham gia dự án đành phải "bán lúa non", tức là bán tiêu chuẩn cho người khác. Người nhiều thì được khoảng trăm triệu, kẻ ít thì bảy tám chục triệu. Số tiền ấy mang về quê nông thôn cũng là một khoản kha khá có thể làm được nhiều việc nhưng ở thành phố thì chả đáng gì.

Dự án chung cư thi công ì ạch. Lẽ ra mười tám tháng thì xong nhưng kéo dài tới gần ba năm. Nhiều người sốt ruột nhưng tôi lại mừng thầm. Công trình dây dưa kéo dài, thời hạn thu tiền của từng đợt cũng phải giãn ra. Đến khi dự án hoàn thành tôi cũng co kéo nộp đủ số tiền hơn nửa tỷ đồng để được nhận nhà. Thời điểm này nhà đất đang lên cơn sốt căn hộ nếu bán đi trừ tiền đã nộp cũng kiếm được cả tỷ đồng. Nhiều người "bán lúa non" hoặc có tiền mà không cố theo dự án lúc này mới thấy hối tiếc. Tự dưng mất toi cả tỷ mà lương công chức ba cọc ba đồng suốt đời chả tích cóp nổi. Vì thế hôm bàn giao nhà mới xảy ra chuyện bi hài. Ông cán bộ cấp cao là người đứng tên trong dự án nhận nhà rồi không chịu bàn giao chìa khóa cho người mua vì quá tiếc của. Hai nữa thằng đến nhận nhà cũng không phải là thằng đã mua "lúa non" của ông. Thì ra bọn chúng đã mua đi, bán lại giấy tờ căn hộ của ông đến mấy lần để kiếm lãi chênh lệch giá. Tiếc thì tiếc cuối cùng ông cũng phải giao nhà cho người mua vì họ đang cầm giấy tờ hợp pháp trong tay. Do mua đi bán lại nên chung cư của cơ quan tôi và cả các dãy nhà tự xây bây giờ là người tứ xứ, ở nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau. Người ở trăm quê tụ về nên phong cách sống, giọng nói, văn hóa cũng khác nhau.

Có căn hộ mới, thằng con đang học đại học đỡ phải thuê nhà trọ, thằng cháu ở quê ra Hà Nội làm việc có chỗ tá túc. Tôi mua tạm một vài thứ đồ gia dụng giá rẻ. Mùa hè bố con, bác cháu lăn ra nền nhà mà ngủ. Mùa đông thì cố kiếm thêm tấm đệm. Sáng sớm mùa đông mù mịt nghe tiếng còi lanh lảnh, tiến hô "một hai ba bốn..." vang lên ở dưới sân thằng cháu thò cổ qua cửa sổ nhìn rồi hỏi tôi:

- Trời rét mướt mà các cụ vẫn làm gì thế hả bác?
Tôi bảo:

- Thì... các cụ đang... "bảo dưỡng" cái máy rút tiền ATM đấy. Toàn các cụ hưu, mỗi tháng lương hơn chục triệu chứ ít à!

Thằng cháu vừa chui vào chăn ấm vừa lẩm bẩm: "Tuổi cao, rét thế không khéo mà bị cảm ốm thì hỏng toi mất cả máy...". Tôi bật cười vì câu nói của thằng cháu. Đúng là trong khu tập thể chỉ có các cụ cao tuổi là tập thể dục thôi. Sáng tập thể dục, chiều đánh bóng chuyên hơi, cũng hò hét chẳng kém gì đám thanh niên. Họ toàn là các cán bộ về hưu và các bà vợ từ nông thôn ra thành phố định cư khi chồng được chia đất làm nhà. Những bà nông dân ngày nào chân đất, áo nâu bây giờ cũng phơi phới váy dài, váy ngắn, môi son, tóc uốn lượn sóng, móng tay móng chân sơn đỏ chót chả kém gì phụ nữ chốn thị thành. Ngày xưa ở quê quanh năm suốt tháng đi bộ ra đồng cày cấy giờ đi một bước cũng tắc-xi. Xe tắc-xi đậu như sung quanh khu tập thể, gọi một tiếng là có ngay.

Sống và công tác ở thủ đô đã lâu vậy mà cả kể từ khi có nhà tôi vẫn chưa cảm thấy mình là người Hà Nội. Tôi cứ thấy mình như người ở trọ chốn thị thành, lòng luôn phấp phỏm, về nhà mình hẳn hoi mà nhiều lúc vẫn nghĩ là ở nhà công vụ. Tôi thường tự hỏi sao mình kém hòa nhập, làm quen với chốn thị thành hơn cả các bà nông dân vừa buông nắm mạ bỏ quê theo chồng ra định cư trong khu tập thể.

Ở chung cư một thời gian tôi được chứng kiến nhiều chuyện. Quanh cái sân nhỏ đánh bóng chuyền hơi có dãy ghế đá cho các cụ ngồi nghỉ ngơi. Những câu chuyện đời, chuyện nhà, chuyện phố râm ran. Ông cựu trưởng phòng hậm hực khi thấy thằng nhân viên bây giờ đã là thứ trưởng, tương lai sẽ lên bộ trưởng. Bà nguyên vụ phó vụ nuối tiếc thời đương chức không cố thêm một tý để lên cấp trưởng... Từ trên ban công nhà chung cư tôi có dịp quan sát các dãy nhà tự xây của lớp đi trước. Mỗi người mỗi kiểu, thò ra, thụt vào, cao thấp khác nhau. Người có điều kiện thì xây cao tô vẽ hoành tráng, người ít tiền thì làm thấp, trang trí sơ sài, chả theo một khuôn mẫu nào. Mỗi người lấn một tý, nhích ra vài phân nên đường đi chung bị bóp lại, mương thoát nước, lối thoát hiểm người to béo khó chui qua. Ai cũng muốn lợi dụng những diện tích chung để sử dụng riêng, bán hàng quán nước, giữ xe, trồng cây cảnh. Mâu thuẫn là chuyện không tránh khỏi. Khi ông cán bộ vật giá to béo về hưu đang cố ôm bụng cúi người thổi cái bếp than tổ ong khói mù mịt thì ông cựu cán bộ ngành dân số gầy gò bưng chậu nước ra trút ào vào cái bếp. Bếp than tắt ngóm, khói bụi mù mịt. Thế là hai ông cãi nhau rồi lao vào đấm đá, vật nhau. Đúng là tức nước vỡ bờ. Cái bếp than của ông vật giá chuyên đun nước sôi cho bà vợ bán quán bấy lâu nay đã "khủng bố" cả ngõ. Nhà nào cũng phải đóng kín cửa nhà cửa sổ mỗi khi ông vật giá nổi lửa. Nhưng khói không có chỗ thoát vẫn chui qua khe cửa vào từng nhà. Trẻ con, người lớn ho sù sụ. Ông cán bộ ngành dân số đã nhiều lần góp ý nhưng ông vật giá vẫn nổi lửa hàng ngày thế là xảy ra xô xát.

Thấy hai ông cán bộ hưu trí hùng hục vật nhau, đám trẻ con liền xô ngay lại. Mấy thằng choai choai đầu tóc xanh đỏ gào ầm ĩ cổ vũ cho cả hai:

- Bác "vật giá" thắng... rồi... tên còi phen này nhất định sẽ bị đè cho bẹp dúm...

- Bác "dân số" ơi cố lên, đừng sợ lão béo béo... đừng sợ...

Nghe tiếng ồn ào, ông tổ trưởng tổ dân phố và mấy cựu sĩ quan quân đội vội chạy ra can ngăn hai ông đánh nhau và quát mắng bọn thanh niên nói bậy. Xe đặc chủng của cảnh sát cũng rú còi ập đến. Ai đó đã nhanh nhẩu gọi 113. Hai ông cán bộ hưu được mời về trụ sở phường để xử phạt hành chính. Lúc rời trụ sở phường ông "dân số" tuy còn rất đau, mặt mũi thâm tím nhưng được mấy thanh niên kề xe máy đón chở về nhà như một anh hùng. 

Sau chuyện xô xát giữa hai ông cựu cán bộ tổ dân phố họp ra nghị quyết về nếp sống văn hóa. Cũng giống như nghị quyết của chi bộ. Nghị quyết của tổ dân phố khu tập thể  phần lớn người nghỉ hưu chủ yếu là chống lấn chiếm vỉa hè, lề đường, không vứt rác bừa bãi, để chó mèo chạy rông đái ỉa lung tung... Nghị quyết thì ai cũng giơ tay biểu quyết nhưng thực hiện thì không, mọi chuyện vẫn đâu vào đấy. Rác vẫn tung ra đường, chó vẫn chạy rông ỉa bậy, đuổi cắn người. Một buổi sáng mùa đông cuối năm trời rét căm căm. Bà S. diện một chiếc váy mới, tay cầm cái ví đầm mới con gái đi du lịch Hàn Quốc về biếu. Bà đang đi đến chỗ tập trung để đi lễ của thì ào một cái, nước từ trên tầng cao nhà chung cử dội xuống trúng đầu. Bà S. bị ướt như chuột lột. Nhưng bà không thấy rét. Bà đang tức đến sôi cả máu trong người. Bà S. ngửa cổ nhìn lên. Nhà chung cư vẫn im ắng. Cái đứa nào vừa hất nước xuống đường chắc là ở tít căn hộ trên tầng cao. Khi bà S. hoàn hồn nhìn lên thì nó đã vào ung dung ngồi trong nhà uống trà rồi. Bà S. bắt đầu gào lên:

- Cha tiên nhân bố nhà chúng bay... chúng bay hất nước xuống đầu bà thế này à... chúng bay là con người hay là con gì mà vô văn hóa, vô học thế hả... mày có giỏi thì ra đây cho bà nhìn cái mặt mày thế nào mà vô học thế hả...

Không có ai đáp lại bà. Dù bà có gào đến mỏi mồm cũng không ai dại gì mà ra ban công hay ló đầu qua cửa sổ để bà trông thấy mặt. Dân ở chung cư ngồi im trong nhà. Ai ló mặt ra lúc này là dại. Từ tầng hai đến tầng ba mươi bảy là ba sáu gia đình có các cửa thẳng xuống chỗ bà S. vừa bị dội chậu nước rửa bát. Thôi đành một đứa làm bậy cả dãy cùng chịu nghe chưởi vậy.

Không thấy ai ló mặt ra, bà S. càng lồng lộn:

- Mả bố nhà chúng bay! Cái bọn chung cư mất dạy... cái bọn nhà quê mông muội... Cút mẹ hết về quê chúng mày đi...

Đến nước này thì ông tổ trưởng tổ dân phố lại phải xuất hiện. Nếu không, danh hiệu tổ dân phố văn hóa có nguy cơ bị anh hưởng. Ông ôn tồn nói với bà S.:

- Bà ơi! Để chúng tôi nhắc nhở và có các biện các hộ dân sống ở nhà chung cư không được hất nước, ném rác bừa bãi xuống đường như thế nữa. Hôm trước, trẻ con ném một quả táo xuống mà làm vỡ cả kính ô tô đấy.

Bà S. vẫn chưa chịu. Bà vừa đưa tay gỡ mấy cái cọng rau muống dính trên tóc vừa cố hạ giọng nói với ông tổ trưởng dân phố:

- Nhưng mà tôi ghét cái bọn nhà quê...

Ông tổ trưởng vội cắt lời bà S. nhưng vẫn nhã nhặn

- Thôi bà ạ... Tất cả chúng ta cũng đều là từ quê ra cả thôi...

Nghe ông tổ trưởng nói vậy bà S. liền im bặt. Bà lùi lũi quay về nhà thay váy áo để còn kịp đi lễ chùa.

         (hết phần 1)                                     Hà Nội, 21/2/2017


Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017



Nhớ ngày mười bảy tháng hai năm ấy


Tản văn của Trọng Bảo


chien tranh bien gioi 1979: nhung hinh anh con mai voi thoi gian hinh anh 12
         
          Ba mươi tám năm trước, ngày 17 tháng 2 đúng vào chủ nhật. Hồi ấy, sau cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, chúng tôi được cấp trên phổ biến lại là Trung Quốc đánh sang Việt Nam chọn vào ngày chủ nhật để giảm dư luận quốc tế phản đối vì ngày cuối tuần ở phương Tây họ thường nghỉ làm việc đi du lịch, giải trí, ít chú ý đến vấn đề thời sự, không có phản ứng kịp thời. Khi sang đến ngày thứ hai của tuần thì việc nổ ra một cuộc chiến tranh là chuyện đã rồi.
            Ngày 17 tháng 2 năm 1979, cách nay ba mươi tám năm tôi có mặt ở khu vực cửa khẩu Bình Mãng (Hà Quảng-Cao Bằng). Trung đội thông tin của chúng tôi trú quân ở bản Cốc Vườn, cách đường biên giới chưa đầy năm trăm mét đường chim bay. Đứng trên sàn trước cửa ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc tôi nhìn rõ vị trí đặt súng 12ly7 của đối phương ở trên một mỏm núi đá ăn sâu vào đất ta. Buổi tối ngày thứ bảy (16-2-1979), chúng tôi còn chuẩn bị dụng cụ để ngày mai chủ nhật được nghỉ toàn đơn vị sẽ đi cuốc đất trồng ngô. Nhưng đến nửa đêm thì có lệnh báo động chiến đấu, các bộ phận nhanh chóng cơ động lực lượng lên trận địa phòng ngự. Lợi dụng đêm tối, bọn địch đã cắt phá mấy chục mét rào biên giới, lùa hàng chục con trâu sang để phát hiện vị trí các bãi mìn của ta. Trung đội thông tin tiểu đoàn 3 chúng tôi được lệnh triển khai tổ chức các hướng đảm bảo liên lạc cho các điểm chốt của bộ binh và trận địa hoả lực. Anh em đi hết, trong ngôi nhà sàn rộng thênh thang chỉ con một mình tôi và một chiến sĩ vô tuyến 2W. Suốt đêm tôi không ngủ được vì bận canh thông máy vô tuyến cho các hướng liên lạc. Gần sáng, tôi vừa chợp mắt thì giật nảy mình bởi những tiếng nổ dữ dội. Tôi bật dậy vớ vội khẩu súng, khoác ba lô lao ra cửa nhà thì nghe tiếng trung đội trưởng Mùi quát gọi:
            - Bọn Trung Quốc tấn công rồi! Ra trận địa ngay! Khẩn trương lên... 
            - Rõ... -Tôi đáp rồi nhảy ào từ sàn nhà xuống đất.
 Mông, người dân tộc Nùng, chiến sĩ thông tin vô tuyến đeo máy phóng theo. Chúng tôi lúc chạy, lúc thì nằm ép người bò lết theo lòng mương nước, bờ ruộng trên cánh đồng trống trải để tránh đạn. Chúng tôi phải có mặt ở vị trí chỉ huy của tiểu đoàn một cách nhanh nhất để đảm bảo thông tin liên lạc cho chỉ huy. Bầu trời sáng rực lên bởi những luồng lửa đạn từ phía bên kia biên giới bắn sang. Đạn bay đỏ rực, xé nát cả bầu trời đêm. Tiếng pháo đinh tai, chói óc, tiếng đạn 12ly7 quét ràn rạt trên cánh đồng. Tiếng người nháo nhác gào gọi nhau thảm thiết, tiếng kêu khóc hoảng loạn của những người dân chưa kịp đi sơ tán. Tiếng chó sủa, gà kêu, bò rống ầm ĩ tan tác, vỡ đàn. Tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật. Mọi thứ âm thanh hỗn độn ấy hoà vào nhau trong khói lửa, cát bụi mù mịt. Đó là ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc mà tôi đã được chứng kiến và tham dự. Cuộc chiến tranh ấy đến hôm nay đã ba mươi bảy năm rồi mà âm thanh và sự khốc liệt vẫn in hằn trong tâm trí. Một cuộc chiến tranh không thể nào quên đối với bao nhiêu người lính đã trải qua ở nơi biên cương ải bắc ngày ấy. Một cuộc chiến xin đừng lãng quên...
          Ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt trên các hướng. Bọn địch tấn công như vũ bão. Xe tăng, bộ binh của chúng lúc nhúc như dòi bọ trên những cánh đồng, trên những sườn đồi nơi tuyến đầu biên giới nước ta. Chúng chọc thủng các tuyến phòng ngự của quân ta phía Thông Nông, Trà Lĩnh. Xe tăng nhãn hiệu “bát nhất” của địch tiến rất nhanh về hướng thị xã Cao Bằng. Khu vực trung đoàn chúng tôi phòng ngự địch cũng vượt qua được phòng tuyến của tiểu đoàn 2 ở Pác Bó tiến thẳng xuống ngã ba Đôn Chương, đánh ngược lên thì trấn Sóc Giang. Vậy là tiểu đoàn 3 chúng tôi nằm giữa vòng vây bốn bề trung điệp của quân giặc. Đạn địch từ phía biên giới bắn xuống, pháo địch từ phía sau nã lên và hai bên sườn là bộ binh và các đơn vị đặc nhiệm, thám báo Trung Quốc ép sát tấn công bất kể ngày đêm. Tuy nhiên, hướng phòng ngự chính diện của tiểu đoàn 3 chúng tôi bọn địch từ bên kia biên giới không thể tràn sang để tiến sâu xuống thị trấn Sóc Giang. Bọn chúng bị chặn đứng ở khu vực chốt cây đa của đại đội 11. Hàng trăm tên địch bị tiêu diệt, hàng chục chiếc xe tăng cuả bọn chúng bị bắn cháy, Trận địa của các đơn vị lở lói tan hoang, đất đá, hầm hào bị tróc hết sau những đợt nã pháo và tấn công dữ dội của quân địch. Vậy mà sau hàng chục đợt xung phong của bọn xâm lược trong ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh đại đội 11 vẫn bảo vệ được chốt cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai. Song tình hình của tiểu đoàn 3 chúng tôi cũng vô cùng khó khăn, nguy hiểm trước sức ép tiến công của một lực lượng bộ binh, cơ giới đông đảo của quân xâm lược và trước sự chi viện ngày càng thưa thớt, ít ỏi dần rồi mất hẳn của cấp trên.
          Đến nửa đêm ngày 17 tháng 2, chúng tôi được lệnh chuyển vị trí chỉ huy tiểu đoàn xuống hang Huyện uỷ ở giữa thị trấn Sóc Giang. Hang nằm lưng chừng một mỏm núi đá trơ chọi giữa thị trấn. Nơi mà mấy ngày hôm sau đã diễn ra những trận đánh rất ác liệt khi quân địch từ phía sau đánh ngược lên thị trấn Sóc Giang. Chúng tôi lặng lẽ bám sát nhau đi theo lối mòn chân núi. Qua nghĩa trang thị trấn chúng tôi gặp các chiến sĩ trung đội vận tải của tiểu đoàn đang hì hục đào huyệt chôn cất các liệt sĩ. Có gần mười cán bộ, chiến sĩ, thân thể bê bết máu đang nằm trong nghĩa trang. Họ là những người hy sinh trong ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh đã được đưa về đây. Họ được gói trong những tấm vải liệm còn mới tinh, trong những túi ni-lông. Họ được vùi vào trong lòng đất. Không có hương nhang, không có hoa, chỉ có những cành lá xanh cắm lên từng nấm đất ướt đẫm sương đêm nơi biên giới. Những ngày sau đó khi thị trấn Sóc Giang bị quân địch chiếm, bọn chúng đã cho đào các nấm mồ của các anh chị lên để tìm vì nghi ngờ ta chôn dấu vũ khí. Sau chiến tranh chúng tôi chôn cất lại cho các anh chị ấy. Vậy mà mới đó đã ba mươi bảy năm. Khi các anh chị ngã xuống khi tuổi đời vừa mới mười tám, đôi mươi. Bây giờ “tuổi liệt sĩ” của các anh chị ấy đã gần gấp đôi tuổi đời của họ khi đó.
         Ba mươi tám năm đã trôi qua, hơn một phần ba thế kỷ, nhưng năm nào đến ngày 17 tháng 2 tôi cũng đều nhớ về những người đồng đội của mình mùa Xuân năm ấy. Đó là một mùa Xuân lạnh lẽo, đau thương, cánh hoa đào rừng vương trên báng súng của những người lính Việt Nam trong một cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ thù hung bạo để bảo vệ miền biên giới của Tổ quốc thân yêu. 

                                                                                    Hà Nội, 16/2/2017