Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

Truyện ngắn NHỚ RỪNG đăng Báo QĐND

LTG: Trang Văn học-Báo Quân đội nhân dân, thứ sáu (14-2-2014) đã đăng truyện ngắn Nhớ rừng, một truyện ngắn tôi viết về kỷ niệm thời tuổi trẻ sống, lao động ở miền rừng núi Hà Giang thân yêu. Tác giả xin trân trọng cảm ơn ban biên tập báo và post lại trên blogs của mình (Trọng Bảo).
Nhớ rừng
QĐND - Thứ sáu, 14/02/2014 
QĐND - Gặp tôi ở chợ hoa phong lan, anh Đạo kéo tôi về nhà anh. Sao giữa chốn thị thành này lại có một khu vườn rộng và đẹp đến thế. Quên cả mình là khách, tôi nhào ngay đến chỗ gốc cây treo lủng lẳng những giò phong lan rừng. Đang đúng mùa quế lan hương nở. Những chùm hoa màu trắng như sữa buông xuống. Mùi hương thơm ngan ngát. Anh Đạo gọi to:

- Mình ơi! Có khách quý…
Một người phụ nữ luống tuổi từ trong căn nhà gỗ ló ra. Tôi vội quay lại:
- Chào chị! Em là…
- Chiến hữu của tôi đấy. Chiến hữu đặc biệt. Từng sống chết với nhau thời biên giới đấy! - Nói đến đây anh cũng thấy ngạc nhiên - Ồ… mới đấy mà cũng đã mấy chục năm rồi!
- Thế sao hôm nay chú mới đến nhà chơi…
Anh Đạo trả lời thay tôi:
- Thì chiến đấu mỗi người mỗi hướng. Tôi bị thương chuyển về tuyến sau, qua bao nhiêu là bệnh viện… mất liên lạc. Mấy chục năm rồi, hôm nay bất ngờ gặp chú ấy ngoài chợ. Chú ấy làm việc ở ngay Hà Nội mà có biết đâu. Thôi bà đi chợ kiếm cái gì cho anh em tôi liên hoan một bữa ra trò mừng ngày tái ngộ.
- Được rồi, ông cứ yên tâm!
Nói đoạn, chị chủ nhà xách làn đi ra cổng. Tôi và anh ngồi ngay giữa vườn cây. Chúng tôi vừa uống chè, ngắm hoa, vừa trò chuyện rôm rả. Kỷ niệm ngày mới nhập ngũ hiện lên trong tôi tươi mới như vừa hôm qua.
Ngày ấy là những năm tháng cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tôi nhập ngũ theo lệnh tổng động viên. Chúng tôi háo hức lên đường. Miền Nam đang thắng lớn dồn dập. Những tin tức chiến sự từ mặt trận bay về khiến chúng tôi bồn chồn, mong được tham gia đội hình tiến vào Sài Gòn ngày chiến thắng. Song chúng tôi chưa hoàn thành chương trình huấn luyện tân binh thì miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Nhưng niềm vui thắng trận chưa nguôi thì những khó khăn thời hậu chiến đã xuất hiện. Đó là những năm tháng khó khăn của đất nước. Đơn vị chúng tôi hành quân lên Hà Giang để làm đường. Con đường 279 từ Bắc Quang xuyên rừng núi hoang sơ sang Yên Bái. Đơn vị làm lán tạm giữa rừng để mở tuyến thi công nền đường. Một hôm, tôi được giao nhiệm vụ lên tiểu đoàn nhận mắm tôm về cho nhà bếp. Khi khoác chiếc ba lô nặng trịch, hôi mù trên vai đi qua nhà chỉ huy thì chợt nghe tiếng gọi:
- Nguyên phải không?
Tôi dừng lại nhìn vào nhà chỉ huy. Tiểu đoàn trưởng Doanh là người cùng huyện nên nhận ra tôi. Anh dẫn một người trông vẻ lính cũ ra bảo:
- Đây là Đạo. Anh ấy được biên chế về Đại đội 7, cậu dẫn anh ấy về đơn vị luôn nhé!
- Vâng! Anh đi luôn cùng em chứ?
Thế là chúng tôi quen nhau. Anh Đạo hơn tôi bốn tuổi, nhập ngũ cũng hơn tôi gần bốn năm. Anh là dân Hà Nội. Anh vừa tốt nghiệp trung cấp cầu đường được điều về làm nhân viên kỹ thuật tại đại đội tôi. Dọc đường về đơn vị hơn chục cây số đường rừng, mặc dù tôi từ chối nhưng anh cứ dứt khoát giành đeo giúp tôi cái ba lô mắm tôm nặng trịch. Chúng tôi thân với nhau từ đó. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau. Kiếm được cái gì ăn như nồi sắn luộc, nắm xôi dân bản cho anh cũng gọi tôi. Bây giờ nói chuyện ăn uống thì nghe có vẻ kỳ cục và khổ khổ thế nào ấy. Nhưng những năm tháng sau chiến tranh, để được bữa ăn no không phải dễ, đừng nói là ăn ngon. Khẩu phần bữa của mỗi người là hai bát hạt bo bo hoặc hai nắm bánh mì đen luộc. Ăn xong bữa mà cứ như chưa ăn. Cánh lính làm đường, suốt ngày đào đất, đục đá, bụng đói, tay run nhiều khi hoa cả mắt. Giữa tôi và anh Đạo có bao nhiêu kỷ niệm, vui buồn đều có.
Hôm đó là ngày nghỉ. Tôi đang nằm đọc tờ báo cũ thì anh ngó vào:
- Đi theo tao có cái này hay lắm!
Thấy tôi ngần ngừ, anh nói tiếp:
- Hôm qua đi khảo sát định tuyến, tao phát hiện được một tổ ong mật to lắm.
Nghe vậy, tôi ngồi bật ngay dậy. Tôi vớ con dao đi theo anh. Mọi ấm ức với anh tan biến. Tôi với anh sôi nổi bàn cách lấy mật ong. Đến gốc cây ngát có tổ ong, chúng tôi vun lá khô châm lửa. Khi lửa đã cháy, chúng tôi ném mấy cành lá tươi vào. Khói bốc lên nghi ngút. Đàn ong ào ào bay vun vút ra khỏi tổ. Anh Đạo leo lên cây cắt lấy tổ ong mọng căng những mật cho vào xô rồi ròng dây xuống cho tôi. Tôi đỡ xô mật ong. Anh Đạo tụt xuống. Hai anh em ngồi luôn dưới gốc cây chén mật ong. Mật ong tươi, ngọt lịm.
Chúng tôi mải ăn và vắt mật ong ra xô, không để ý đống lửa đốt lá cây tươi đã tàn, khói không còn bốc lên nữa. Thế là đàn ong lao xuống đốt túi bụi. Bị bất ngờ, tôi và anh Đạo hoảng quá bỏ cả xô mật phá chạy. Nhưng chúng tôi chạy đến đâu đàn ong đuổi theo đến đấy. Hai chúng tôi phóng vào khu doanh trại của đơn vị nữ ở chân dốc. Các chiến sĩ nữ đang cuốc xới, nhổ cỏ ở vườn rau hét lên kinh hãi khi thấy đàn ong như một đám mây đen đuổi riết theo hai chúng tôi. Chúng tôi chạy qua chỗ chị em đang tăng gia. Nhưng lạ thay, đàn ong chỉ bám theo tôi và anh Đạo, chúng không đốt bất cứ ai khác. Tôi và anh Đạo lao vào nhà bếp. Đàn ong đuổi theo. Hai cô bé đang vặt rau rú lên hoảng sợ. Anh Đạo rút vội một thanh củi đang cháy ngùn ngụt vung lên khua đuổi đàn ong. Tôi cũng vội vớ lấy một thanh củi đang cháy. Nồi nước trên bếp lật đổ ụp xuống, khói mù mịt. Hai chúng tôi khua khoắng một hồi đàn ong mới chịu bay đi. Tôi và anh Đạo lúc này mới hoàn hồn, tay vẫn chưa dám buông cành củi đang tỏa khói. Hai nữ chiến sĩ nuôi quân mặt cắt không còn tý máu. Tôi ấp úng xin lỗi rồi kéo anh Đạo ra ngoài. Đến bìa rừng, anh còn tỏ vẻ tiếc rẻ bảo:
- Tao với mày lên chỗ gốc cây ngát tìm xô mật ong đi.
- Thôi để đến tối! Mò lên bây giờ bọn ong nó đánh cho một trận nữa thì toi hẳn.
Tôi vừa gàn anh vừa xoa xoa cái đầu đau ê ẩm vì ong đốt. Anh Đạo nhất định tìm cách lên lấy bằng được xô mật. Anh lo để đấy đến tối thì lũ kiến sẽ bò vào làm hỏng xô mật ong. Anh buộc một bó nứa to châm lửa và đốt lên cùng lá cây tươi. Khói mù mịt. Anh lên lấy xô mật ong. Buổi tối, tôi và anh xách theo hai chai mật ong sang cho các em ở trung đội nữ như một lời xin lỗi vì đã làm cho họ một phen khiếp đảm. Sau bận ấy, chúng tôi hay sang chơi với các em ở trung đội nữ. Các nữ chiến sĩ đóng quân ở giữa rừng, họ cũng vất vả làm đường như đơn vị nam chúng tôi. Hôm hai nữ chiến sĩ đi lấy gạo bị lũ cuốn trôi, cả đại đội chúng tôi dàn quân lần theo dọc hai bờ con sông Bạc tìm thi thể của họ.
Một lần, anh Đạo được cử về Hà Nội mua hạt rau giống. Không biết anh tỉ tê thế nào mà đại đội trưởng đồng ý cho tôi cùng đi. Khi chúng tôi qua chỗ đơn vị nữ hỏi xem chị em có nhờ mua bán cái gì không, các cô gái cứ cười cười mãi. Thoan, một trong hai cô bé nhặt rau ở bếp bữa chúng tôi bị đàn ong đuổi hôm trước đưa cho chúng tôi một cái phong bì dán kín và dặn:
- Các thứ cần mua chúng em đã ghi cả trong này rồi! Nhưng ra đến ngoài đường các anh mới được mở ra xem đấy nhé!
Nghe Thoan dặn, các cô gái cứ cười ngặt nghẽo mãi.
Hai chúng tôi bám nhờ xe chở xi măng ra Quốc lộ 2 để đón xe khách. Phải mất hai chặng xe mới tới được ga Phú Thọ. Từ ga Phú Thọ, chúng tôi đi tàu xuôi Hà Nội. Anh Đạo về Hà Nội trước mua hạt rau giống. Tôi tranh thủ mượn xe đạp tạt về thăm nhà một tối rồi sáng hôm sau về Hà Nội đón anh ở ga Hàng Cỏ để cùng ngược lên đơn vị. Gặp nhau ở sân ga, anh Đạo bảo:
- Mày lấy thư của các em ra xem họ nhờ mua cái gì?
Lúc này tôi mới nhớ đến lá thư Thoan đưa cho hôm trước nhét ở góc ba lô. Vừa bóc ra xem, tôi tái mặt kêu:
- Chết rồi anh Đạo ơi!
- Việc gì thế?
Tôi vừa đưa mảnh giấy cho anh Đạo vừa ghé tai anh nói nhỏ:
- Chị em nhờ mua toàn đồ “phụ tùng” của phụ nữ… làm thế nào bây giờ hả anh?
Anh Đạo đọc xong tờ giấy cũng hơi cuống. Chị em trung đội nữ nhờ mua bốn mươi cái xu-chiêng. Ngày ấy, cả tôi và anh đều chưa có gia đình. Thậm chí tôi còn chưa có cả người yêu nữa. Bàn tính một lúc, chúng tôi kéo nhau ra đường Nam Bộ trước cửa nhà ga. Hai anh em cứ lượn đi lượn lại mãi mới dám đánh liều vào một cửa hiệu của một chị đứng tuổi. Chị bán hàng hỏi:
- Hai chú bộ đội cần mua gì?
Anh Đạo chỉ tôi. Tôi gãi đầu gãi tai, ấp úng không nói được.  Chị chủ hiệu gặng hỏi. Tôi đưa cho chị tờ giấy. Chị xem xong cười ngặt nghẽo một lúc rồi bảo:
- Đấy, các chú xem các loại kích cỡ nào thì chọn đi!
Tôi càng hoảng. Anh Đạo lúc này còn giở quẻ:
- Mày xem em Thu, em Lý, em Tân, nhất là em Thoan của mày vừa cái nào thì mua đi, sắp đến giờ tàu chạy rồi…
Tôi cáu:
- Anh định đùn hết trách nhiệm cho em à?
- Nhưng các em nhờ mày mua chứ có nhờ tao đâu!
Tôi quyết định:
- Nhờ chị chọn cho hai mươi cái loại vừa, hai mươi cái loại to.
- Mày mua thế nhỡ có chị em nào không vừa thì mày chết! - Anh Đạo dọa.
Tôi cũng hơi lo. Nhưng các em không ghi rõ kích cỡ thì biết thế nào. Để cho yên tâm, tôi mua thêm năm cái loại to nhất nữa. Chị bán hàng xếp bốn lăm cái xu-chiêng vào ba lô cho tôi. Trên đường về đơn vị, tôi tìm cách đùn việc đeo cái ba lô loại hàng “đặc biệt” này cho anh Đạo. Lúc ngồi trên tàu xe, mỗi khi thấy công an hay tổ kiểm soát quân sự đi qua là tôi lo tái cả mặt. Họ mà kiểm tra hành lý thì nguy. Ngày ấy còn có chuyện ngăn sông cấm chợ, hàng hóa cấm lưu thông. Bị kiểm tra, bày các thứ ra thì ngượng chết, nhất là lại bị quy là buôn lậu các thứ này nữa thì càng nguy. Lúc đến Vĩnh Tuy, tôi bảo anh Đạo xuống xe. Anh ngạc nhiên:
- Lên tới ngã ba đi Yên Bình mới xuống đi bộ cho gần chứ. Xuống ở đây xa mất hơn mười cây số đấy.
- Trạm kiểm soát quân sự chỗ ngã ba kiểm tra kỹ lắm. Xuống đây cho yên tâm!
Tôi nói và đeo chiếc ba lô hàng “đặc biệt” lên vai. Anh Đạo bảo:
- Mày khôn thế! Dọc đường sợ bị bắt thì đùn cho tao đeo cái ba lô này. Bây giờ cuốc bộ leo núi thì mày lại xí phần?
Nói vậy nhưng anh vẫn khoác chiếc ba lô hạt giống nặng lên vai. Qua chỗ đơn vị nữ, chị em trông thấy ùa ra. Tôi quẳng cái ba lô về phía chị em rồi tháo chạy. Hôm sau gặp nhau ở bờ suối, Thoan cười cười bảo tôi: “Anh mua cho em hai cái chả cái nào vừa cả!”. Tôi đánh bạo: “Lần sau có nhờ thì phải cho… kiểm tra, đo trước thì mới mua đúng được…”.
Tôi và anh Đạo cùng ôn lại chuyện cũ. Anh bùi ngùi:
- Trận đánh ở biên giới năm ấy mấy chục chị em hy sinh gần hết. À, mày đã đến thăm nhà cái Thoan lần nào chưa?
- Có! Em đã đến nhà cô ấy ngay sau chiến tranh biên giới 2-1979. Đơn vị giao cho em đem di vật của liệt sĩ về giao cho gia đình Thoan. Mẹ cô ấy mở cái ba lô ra cầm mấy thứ đồ của con gái cứ khóc mãi.
Anh Đạo đứng dậy:
- Thôi, nhắc lại chuyện cũ buồn quá! Theo tao ra vườn xem hoa phong lan. Có mấy loại lan rừng tao mới tầm được đấy.

Truyện ngắn của TRỌNG BẢO