Thứ Hai, 18 tháng 2, 2019

Ghi chép CHÚNG TÔI Ở BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC - phần 7

CHÚNG TÔI Ở BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC - phần 7
Ghi chép của Trọng Bảo 

7-Vòng vây quân thù khép chặt

Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của bọn bành trướng Trung Quốc đã sang ngày thứ ba (19-2-1979). Tiểu đoàn 3 của chúng tôi đã bị thiệt hại nặng vẫn trụ vững, nhưng lực lượng của Đại đội 11 ở các chốt tiền tiêu phía cửa khẩu Bình Mãng còn rất ít. Khoảng 5 giờ sáng, bọn địch chiếm được mỏm ĐKZ, đến trưa thì chúng chiếm được phần lớn chốt cây đa thứ nhất của Đại đội 11. Tuy vậy, chúng cũng không thể tiến ngay sang được chốt cây đa thứ 2.
Tại chốt cây đa thứ nhất bộ đội đang đánh giáp la cà với quân địch và khẩn thiết yêu cầu tiểu đoàn cho pháo cối bắn trùm lên trận địa. Khi những người lính cuối cùng đã ngã xuống, hỏa lực cối 82 của Đại đội 12 được lệnh bắn trùm lên chốt cây đa thứ nhất đang lúc nhúc quân bành trướng. Tuy vậy tại mỏm 1 của chốt cây đa thứ nhất vẫn có tiếng súng bộ binh của quân ta kiên cường kháng cự. Đến đêm, khi các chiến sĩ trinh sát bò lên kiểm tra mới biết binh nhất, chiến sĩ Lý Mý Sùng, dân tộc H’Mông, quê ở Hà Giang vẫn bám trụ suốt cả ngày giữ vững mỏm 1 chốt cây đa thứ nhất. Nguyên do là bởi chuẩn úy Diệp Văn Năm tối hôm trước khi lên gọi Lý Mý Sùng rút về chốt cây đa thứ hai đã bị trúng đạn hy sinh ngay gần đó. Không nhận được lệnh rút lui, Lý Mý Sùng một mình một súng, dù không được tiếp tế, không thức ăn nước uống gì vẫn cứ trụ lại đến cùng đẩy lui nhiều đợt tấn công của quân địch, giữ vững trận địa suốt ngày 19-2. Đến tối, các chiến sĩ trinh sát phải băng qua làn lửa đạn bò lên kéo chân gọi Lý Mý Sùng mới biết để rút theo đơn vị.
Tôi đã gặp Lý Mý Sùng ngay sau đấy, khi Đại đội 11 đã rút về lập tuyến phòng ngự ở trường cấp 1 thị trấn Sóc Giang. Đó là một chiến sĩ còn rất trẻ, có lẽ chưa tròn hai mươi tuổi. Khuôn mặt Sùng trắng trẻo, dáng người thấp, vẻ hiền lành, ít nói. Tôi hỏi:
- Hôm trước, khi xung quanh mình không còn đồng đội nào Sùng lại không rút lui về phía sau?
- Ơ… Sao lại rút lui. Trung đội trưởng bảo mình phải chiến đấu giữ chốt đến cùng cơ mà?
- Thế Sùng bắn nó chết nhiều không?
- Nó chết nhiều lắm, nhưng còn đông lắm…
Với cách trả lời ngắn gọn của Lý Mý sùng, tôi biết chả khai thác được gì thêm ở người chiến sĩ dân tộc H’Mông này nữa. Theo các chiến sĩ cùng bộ phận với Sùng cho biết hai ngày đêm liền Lý Mý Sùng bám trụ bảo vệ mỏm chốt, không được tiếp tế cơm cháo gì cả. Với một khẩu đại liên và hai hòm đạn Lý Mý Sùng chờ bọn giặc xông lên là bắn, tiêu diệt được hơn 60 tên địch. Chiến công của Sùng có ý nghĩa là đã chặn được đội hình quân địch, không cho chúng phát triển tấn công sang chốt cây đa thứ hai, đảm bảo cho số chiến sĩ còn lại và các thương binh ở đây rút lui an toàn về phía sau.
Sau chiến tranh, tôi lại gặp Lý Mý Sùng khi vừa ở đại hội liên hoan chiến thắng quân Trung Quốc xâm lược trở về. Tại đại hội, Lý Mý Sùng đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi chuyện. Khi biết Lý Mý Sùng chưa biết chữ, thủ tướng đã rút cây bút máy cài ở túi áo của mình cho Sùng. (Bản báo cáo thành tích của Lý Mý Sùng là do tôi được chỉ huy tiểu đoàn giao chắp bút và hướng dẫn chiến sĩ này học thuộc lòng trước khi đi dự đại hội). Lý Mý Sùng cho chúng tôi xem cây bút máy của thủ tướng cho và nói:
- Thủ tướng dặn về phải học cái chữ đấy!
Tôi hỏi:
- Thế Sùng đã học được nhiều cái chữ chưa?
Sùng ấp úng:
- Khó lắm! Mới học được ít thôi…
Tôi nói:
- Ô! Phải cố gắng nhé. Đáng giặc được thì học chữ cũng phải được đấy nhé!
Lý Mý Sùng gật đầu. Tôi tin Lý Mý Sùng sẽ học được.
Những chiến sĩ của tiểu đoàn chúng tôi ngày đầu giáp trận đánh quân bành trướng xâm lược là như vậy đó. Họ chủ yếu mới nhập ngũ năm 1978, mới huấn luyện bắn đến bài 2. Có chiến sĩ chưa sử dụng thành thạo các loại súng, chưa hiểu hết tính năng, tác dụng của các loại trang bị vũ khí. Ngày 20-2 có một chiến sĩ mới người dân tộc H’Mông còn vác khẩu trung liên đuổi theo xe tăng địch bắn liền hai loạt. Thấy xe tăng không cháy buồn thiu ôm súng quay lại quần nhau với bộ binh địch trên cánh đồng phía trước bản Nà Nghiềng.
Vậy là hết ngày 19-2, Đại đội 11 đã bị đánh bật khỏi các điểm chốt sát cửa khẩu Bình Mãng. Bọn Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ các chốt cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai, mỏm ĐKZ.
Bọn địch đã hình thành thế xiết chặt bao vây Tiểu đoàn 3 chúng tôi. Từ phía cửa khẩu Bình Mãng bộ binh, xe tăng quân giặc lúc nhúc tiến xuống đến khu vực bản Cốc Vường. Từ phía Đôn Chương pháo địch bắn dội lên. Bộ binh, xe tăng địch đã xuất hiện ở tuyến đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang. Bọn địch đã vượt qua được Nậm Lũng, Trường Hà tiến xuống đánh chiếm khu vực ngã ba Đôn Chương ngay từ sáng ngày 17-2. Phía Mỏ Sắt, Thông Nông trinh sát báo về quân địch đang gấp rút hành quân ngược lên thị trấn Sóc Giang mà không gặp bất cứ sự chặn đánh nào. Tại điểm cao 505 ngay phía trên trận địa của Đại đội 10 xuất hiện lực lượng trinh sát đặc nhiệm sơn cước, thám báo của địch. Vậy là ba bên, bốn phía quân thù đang dồn đến. Thị trấn Sóc Giang như một ốc đảo chơ vơ giữa “biển người” của quân xâm lược. Trong khi đó kể từ ngày hôm qua, Tiểu đoàn 3 chúng tôi không còn nhận được bất cứ sự chi viện nào của cấp trên kể cả và lực lượng, hỏa lực và lương thực, đạn dược. Việc vận chuyển thương binh về phía sau cũng không thể thực hiện được nữa. Sở chỉ huy của trung đoàn và các trận địa pháo, các đơn vị ở phía sau đều bị bọn địch chia cắt tấn công dữ dội, phải chịu rất nhiều thiệt hại. Các đơn vị trực thuộc trung đoàn và phối thuộc đều bao vây cô lập phải độc lập chiến đấu với bọn giặc đông gấp bội không chi viện được cho nhau. Đơn vị pháo lựu 122 ở khu vực bản Kép Ké phải phá hủy súng pháo rồi dùng vũ khí bộ binh huyết chiến với quân thù.
Không biết chúng tôi còn giữ được thị trấn Sóc Giang bao lâu nhưng chắc chắn là những ngày tiếp theo sẽ diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt. Giữa vòng vây trùng trùng của quân thù thế này chúng tôi khó có thể thoát ra, những người còn sống sót sẽ không còn đường rút lui. Nghĩ vậy nhưng tự dưng tôi không thấy sợ và lo lắng như những ngày đầu. Hình như tất cả mọi người có mặt trong hang đều có cảm nhận và suy nghĩ như vậy. Có lẽ mọi người cũng như tôi đều nghĩ ngày mai nhất định mình sẽ quyết chiến một trận với bọn xâm lược và nhất định sẽ chết ở cái thị trấn miền biên ải này nên không ai còn thấy lo lắng sợ hãi nữa. Chúng tôi nhắc nhau bắn đến viên đạn cuối cùng nhưng sẽ để lại cho mình một quả lựu đạn cuối cùng.
Dưới đây là đoạn nhật ký chiến tranh tôi ghi chép về ngày 19-2-1979:
"- Địch: Tổ chức tấn công liên tục cả ngày với lực lượng đông đảo, có xe tăng yểm trợ. Chúng tấn công không thành đợt rõ ràng. 5 giờ sáng, địch chiếm mỏm ĐKZ và một mỏm trên chốt cây đa thứ nhất. Khoảng 1 giờ chiều chiếm nốt chốt cây đa thứ hai.
- Ta: Đại đội 11 chiến đấu rất ngoan cường dũng cảm, tiêu diệt gần 100 tên địch. Đến 1 giờ chiều thì bị đánh bật ra khỏi trận địa. Tối 19-2, lực lượng còn lại của đại đội 11 rút lui về khu vực trường cấp 1 thị trấn Sóc Giang tổ chức trận điạ phòng ngự chặn bọn địch từ hướng biên giới tràn xuống.
Đại đội 12 hoả lực những ngày qua đã sử dụng cối 82 và súng 12ly7 chi viện hiệu quả cho các đơn vị chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Theo đại đội 12 báo cáo, đơn vị đã dùng cối 82 bắn sang bên kia biên giới trúng một kho xăng của địch cháy liên tục hai ngày liền. Hỏa lực 12ly7 bắn kiềm chế các ổ đại liên của quân địch ở khu vực đồi thông và khe núi, ngăn chặn bộ binh của địch từ biên giới tiến sang chốt cây đa thứ nhất của đại đội 11".
Đến nửa đêm 19-2, Tiểu đoàn 3 nhận được bức điện của chỉ huy trung đoàn qua vô tuyến: “Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 3 rút lui về phía nam cao điểm 505 tổ chức trận địa phòng ngự”. Đảng ủy tiểu đoàn tiến hành họp phiên bất thường ngay sau đó. Tham dự cuộc họp có đại úy Đàm Đình Ngữ, trung đoàn phó, TMT đang có mặt trực tiếp chỉ huy chiến đấu tại Tiểu đoàn 3. Đảng ủy tiểu đoàn ra nghị quyết “xin được tiếp tục ở lại chiến đấu bảo vệ thị trấn Sóc Giang, ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược Trung Quốc”. Quyết tâm ấy đã được báo cáo về trung đoàn ngay trong đêm cũng qua mạng thông tin vô tuyến điện 2W. Trung đoàn đồng ý với quyết định của Tiểu đoàn 3. Ngay sau đó liên lạc bằng vô tuyến điện 2W với chỉ huy trung đoàn cũng bị mất luôn. Từ vị trí chỉ huy của Tiểu đoàn 3 cũng chỉ còn liên lạc với các đơn vị trực thuộc được bằng các máy vô tuyến điện sóng cực ngắn 884 của tiểu đội tôi là chủ yếu. Đường dây lên các trận địa đã bị đạn pháo băm nát. Các chiến sĩ hữu tuyến và một số anh em tiểu đội truyền đạt đã xuống trực tiếp tham gia chiến đấu tại các đơn vị. Tổ đài đảm bảo thông tin cho Đại đội 11 của chiến sĩ Châu cũng đã rút về hang Huyện ủy. Do đó, tại sở chỉ huy tiểu đoàn bây giờ có hai máy 884 và ba chiến sĩ thông tin tương đối giỏi nên tôi thấy yên tâm hơn. Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi giao lại cho tôi ba khối pin dự trữ cuối cùng. Tôi giữ lại một khối cho máy ở sở chỉ huy tiểu đoàn, gửi cho tổ đài ở Đại đội 10 và Đại đội 12 mỗi tổ một khối pin dự trữ. Tôi căn dặn anh em phải hết sức tiết kiệm nguồn pin để giữ vững liên lạc phục vụ chiến đấu.
Giữa lúc đó thì Nguyễn Văn Trọng, tiểu đội phó truyền đạt, người vừa ở lên chốt của Đại đội 11 để đón và đưa thương binh về hang Huyện ủy đến tìm và kéo tôi ra gần cửa hang phụ. Trọng rút từ trong túi ngực ra một cái ví đưa cho tôi và nói:
- Đây là cái ví của anh Đam. Em trao lại để anh giữ. Sau này nếu về được quê hương anh chuyển cho gia đình anh Đam nhé!
Tôi hỏi:
- Mày cứ giữ lấy không được à?
Trọng trả lời:
- Ngày mai có khả năng em sẽ đi trực tiếp chiến đấu nên…
Tôi hiểu nên không hỏi nữa. Tôi cầm và run run mở cái ví thấm máu ra. Trong ví đựng ảnh bạn bè cùng số tiền là 70 đồng. Trong một ngăn ví còn có mấy mảnh giấy nhỏ gấp làm tư thấm máu. Tôi mở ra xem. Đó là các quyết định kết nạp đoàn cho ba chiến sĩ trong chi đoàn trung đội thông tin mà Đam là bí thư chi đoàn nhận tối hôm 16-2. Đam chưa kịp hội ý với BCH chi đoàn để tổ chức lễ kết nạp các đoàn viên mới thì cuộc chiến tranh nổ ra. Tôi vội thông báo cho các anh em trong ban chấp hành chi đoàn và trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi biết. Chúng tôi hội ý nhanh và quyết định thông báo qua vô tuyến điện việc kết nạp đoàn cho ba chiến sĩ ấy. Để tiết kiệm nguồn nên bức điện tôi gửi cho chiến sĩ Đình ở tiểu đội tôi đang ở Đại đội 12 chỉ có mấy chữ: “Đ/c đã được kết nạp vào đoàn”…
Đêm ngày 19-2, chúng tôi nhiều người không ngủ. Người thì nhận nhiệm vụ vận chuyển thương binh nặng lên Lũng Vỉ, Lũng Vài ở trên dãy núi đá, người thì mang xẻng cuốc đi đào huyệt chôn cất các liệt sĩ hoặc củng cố công sự, trận địa chuẩn bị cho những trận đánh ngày mai. Không biết bộ phận nuôi quân của tiểu đoàn bộ nấu nướng bằng cách nào dưới làn pháo địch mà đến tối chúng tôi mỗi người được phát một nắm cơm bằng nắm tay và một miếng thịt nhỏ ướp muối. Chúng tôi vừa ăn vừa triển khai công việc chuẩn bị chiến đấu. Số đạn cối 82 còn lại được chuyển lên trận địa Đại đội 12 trên núi đá, các loại đạn bộ binh và lựu đạn chia cho các bộ phận. Kho quân khí của tiểu đoàn trống rỗng kể từ tối hôm đó…
(còn nữa) Hà Nội, tháng 2-2019


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét