Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2021

Ghi chép NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

     NHỚ VỀ HÀ QUẢNG

8-ĐÊM BẢN CỐC VƯỜNG

Đêm bản Cốc Vường chợt yên ắng lạ. Đây là đêm thứ hai chúng tôi ở bản Cốc Vường. Trong bản chỉ có những ánh đèn dầu le lói trong những ngôi nhà có bộ đội trú quân. Mùa Xuân rồi mà trời còn lạnh. Phía cửa khẩu Bình Mãng đêm nay cũng không nhộn nhạo như mọi khi. Ánh điện tự bên kia biên giới hắt lên bầu trời một khoảng sáng. Cái khoảng sáng chứa đầy sự âu lo, chập chờn ma quái trong mắt những người đang ở gần đường biên giới. Bản Cốc Vường, ngay phía sau các điểm chốt tiền tiêu cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai của Đại đội 11, cách đường biên giới và cửa khẩu Bình Mãng độ hơn nửa ki-lô-mét đường chim bay. Mọi động tĩnh của bọn Trung Quốc bên kia biên giới đều được thông báo về chỉ huy Tiểu đoàn 3 đang ở bản Cốc Vường.
Tiểu đội vô tuyến của tôi ở trên căn nhà sàn nhô ra sát con đường lên cửa khẩu. Đứng trên sàn nhà có thế quan sát các điểm chốt của Đại đội 11 và thấy rõ cả đài quan sát của bọn Trung Quốc ở mỏm núi đá phía bên phải, trên đầu điểm chốt cây đa thứ nhất của Đại đội 11. Phía bên trái là trận địa Kéo Nghìn và bản Cốc Nghịu do Đại đội 9 phòng ngự. Trên dãy núi đá là trận địa hỏa lực của Đại đội 12 gồm các khẩu đội 12ly7 và cối 82 bố trí tại Lũng Mật, Lũng Vỉ. Từ trên trận địa của Đại đội 12 có thể quan sát rất rộng toàn bộ khu vực thị trấn Sóc Giang và thị trấn Bình Mãng của Trung Quốc bên kia biên giới. Đại đội 10 thì chốt giữ ở phía sau, trấn giữ con đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang.
Do phải di chuyển vị trí đóng quân lên bản Cốc Vường nên tiểu đội vô tuyến sóng cực ngắn của tôi đều có mặt đầy đủ ở cơ quan tiểu đoàn bộ. Các tổ đài đi tăng cường đảm bảo thông tin cho chỉ huy các đại đội đều rút về. Ngày mai là chủ nhật, trừ bộ phận trực đảm bảo thông tin sẵn sàng chiến đấu số anh em còn lại của tiểu đội sẽ đi làm đất trồng ngô. Chúng tôi đã được bà con bản Cốc Vường cho mượn một vạt đất gần phía hang Ma Gà để tăng gia sản xuất. Mùa xuân đang tới. Mưa xuân tạo không khí ẩm ướt cho một vùng đất đai khô hạn. Cây cối đang lên chồi nảy lộc. Mùa xuân cũng là mùa cày cuốc gieo trồng trên vùng cao biên giới này.
Theo thói quen, khi mọi người bắt đầu đi ngủ, đi tuần tra canh gác thì tôi lại lôi cuốn sổ ra ghi chép lại tình hình trong ngày. Nhưng tôi chưa kịp viết gì thì tiểu đội trưởng truyền đạt Nguyễn Văn Đam đến. Tôi và thằng Đam ngồi nói chuyện với nhau. Đam bảo:
- Tao có linh cảm là chiến tranh sắp xảy ra mày ạ!
Tôi bảo:
- Thì… chắc chắn thế nào chiến tranh cũng sẽ xảy ra thôi. Tình hình như thế này chả sớm thì muộn hai bên cũng phải choảng nhau một trận chí tử mới xong mày ạ!
Nghe tôi nói vậy Đam có vẻ trầm ngâm rồi nói tiếp:
- Biết bao giờ chiến tranh mới kết thúc để bọn mình ra quân về nhà tiếp tục ôn thi vào đại học nhỉ?
Tôi ngập ngừng rồi nói:
- Cũng chả biết liệu bọn mình có còn cơ hội để học hành nữa hay không? Chiến tranh dù không xảy ra nhưng nếu cứ nhùng nhằng mãi thế này cũng khó mà xuất ngũ ra quân được… Hình như mày vẫn còn mang theo mấy cuốn sách giáo khoa để ôn thi đại học phải không?
Thằng Đam gật đầu. Tôi nhăn mặt nói:
- Tình hình thế này cũng đã đến lúc mày vứt mẹ mấy cuốn sách ấy đi cho nhẹ khi hành quân, để mang thêm mấy băng đạn, vài cân gạo. Bao giờ chiến tranh chấm dứt chúng mình tính sau?
Thằng Đam im lặng thở dài không nói gì. Nó xách khẩu AK đứng dậy bảo tôi:
- Thôi! Tao về đây, sắp đến phiên đổi gác rồi!
Tôi nhìn theo thằng Đam tụt xuống cầu thang. Trông nó gầy gò nhỏ bé. Khi bóng thằng Đam đã lẫn vào bóng đêm rồi tôi vẫn chưa thôi suy nghĩ về nó. Tôi và thằng Đam cùng quê Lập Thạch, Vĩnh Phúc, cùng nhập ngũ đợt tháng 2-1975, cùng huấn luyện chiến sĩ mới tại Trung đoàn 121 Vĩnh Phú dưới chân núi Đền Hùng, Lâm Thao, Phú Thọ. Rồi sau đó tôi và Đam lại cùng là lính của Đại đội Thông tin 17B, Trung đoàn 246, cùng được cử đi đào tạo tại Trường Sĩ quan Thông tin. Và, sau mấy tháng đóng gạch, làm nhà, xin tre, rẫy cỏ ở Hiệp Hòa, Hà Bắc tôi và Đam đều bị trả về đơn vị cũ vì yếu sức khỏe, không đủ điều kiện để đào tạo thành sĩ quan quân đội. Thằng Đam ham học, mong ngày ra quân thi vào đại học trở thành một kỹ sư. Tự dưng tôi thấy thương thằng Đam quá và cũng thấy bồn chồn khi nghĩ tới tương lai xa mờ của những người lính chiến. Ta và Tàu liền đất, liền trời, “núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông” thế này nếu chiến tranh nổ ra thì biết đến bao giờ mới kết thúc?
Đêm khuya rồi, tôi không muốn viết nữa. Khi tôi vừa ngả người xuống sàn nhà định chợp mắt một lát thì trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi chạy đến gọi dậy và ra lệnh rất gấp gáp:
- Tiểu đội vô tuyến triển khai ngay các tổ đài xuống các đơn vị! Khẩn trương lên. Đúng 12 giờ đêm phải thông mạng liên lạc vô tuyến điện. Rõ chưa?
Tôi vừa dụi mắt vừa hỏi lại trung đội trưởng Mùi:
- Lại báo động để kiểm tra phương án sẵn sàng chiến đấu như những lần trước à?
- Kiểm tra gì? Mệnh lệnh chiến đấu thật đấy… - Mùi hạ giọng nói tiếp vẻ quan trọng: - Trinh sát bám đường biên vừa báo cáo bọn Trung Quốc đã cắt phá hàng chục mét rào dây thép gai của ta trên tuyến biên giới chỗ gần cửa khẩu Bình Mãng. Bọn chúng cũng xua đuổi gần chục con trâu sang đất ta để phát hiện bãi mìn rồi. Rất có khả năng bọn chúng sẽ tấn công chúng ta đêm nay đấy. Ông cho triển khai mạng liên lạc vô tuyến điện thật khẩn trương nhé!
Tôi lập tức gọi anh em trong tiểu đội dậy giao nhiệm vụ mang máy vô tuyến xuống ngay các đại đội. Đã có phương án sẵn sàng chiến đấu nên các tổ đài lập tức lên đường ngay. Tiểu đội phó Vũ Văn Tự và Hoàng Quy xuống chốt Đại đội 10, Nguyễn Văn Châu và Hoàng Văn Phủng lên chốt của Đại đội 11, Trần Đức Đình và Phùng Văn Minh lên trận địa Đại đội 12 hỏa lực trên đỉnh núi đá. Nguyễn Văn Kếch và một chiến sĩ sang Đại đội 9. Tại chỉ huy tiểu đoàn chỉ còn tôi và chiến sĩ Hoàng Văn Mông. Anh em chiến sĩ nhanh chóng lên đường làm nhiệm vụ. Hình như ai cũng hiểu là tình hình khẩn trương lắm rồi.
Trên con đường phía trước bản Cốc Vường các chiến sĩ công binh, vận tải đang gùi thuốc nổ lên biên giới. Họ sẽ phá hủy đoạn đường dưới chân chốt Đại đội 11 để ngăn chặn xe tăng, xe cơ giới quân xâm lược tấn công xuống thị trấn Sóc Giang.
Gần 12 giờ đêm, các tổ đài đã gọi về báo cáo đã đến đơn vị. Mạng liên lạc vô tuyến điện sóng cực ngắn trong toàn tiểu đoàn đã được thông suốt. Tôi dặn dò các tổ đài khi tình huống chiến đấu xảy ra phải kiên quyết giữ vững thông tin liên lạc phục vụ chỉ huy chiến đấu. Đoạn, tôi chạy đi báo cáo tình hình với trung đội trưởng và chỉ huy tiểu đoàn. Xong xuôi, tôi quay về nhà thì đã hơn một giờ sáng ngày 17-2. Mệt mỏi và buồn ngủ quá. Tôi ngả lưng xuống sàn kéo chăn đắp cho đỡ lạnh rồi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn.
Vừa chợp mắt được một lát thì tôi bất chợt giật nảy mình tỉnh giấc bởi hàng loạt tiếng nổ ầm ầm rất lớn. Ngôi nhà sàn tôi đang nằm rung chuyển, chao đảo. Tôi lẩm bẩm chửi: "Mẹ cha thằng Tàu khựa! Sao hôm nay bọn bay nổ mìn phá đá làm hầm hào công sự sớm thế, không để các ông chúng mày ngủ một lát à?". Khi tôi vừa kéo cái chăn bông trùm kín đầu định ngủ tiếp thì nghe tiếng trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi quát rất to ở ngay dưới gầm nhà sàn:
- Bảo ơi! Bọn Trung Quốc đánh đến nơi rồi mà mày vẫn còn ngủ à?
Nghe thấy thế tôi vội vàng bật ngay dậy. Tôi vớ lấy khẩu AK, khoác ba lô lên vai lao ra ngoài sàn nhà. Một chùm đạn pháo nổ gần làm ngôi nhà chao đảo khiển tôi loạng choạng suýt ngã.
Những luồng đạn pháo từ phía bên kia biên giới bắn sang xé toạc màn đêm ken dày đặc trên trời. Bọn xâm lược Trung Quốc đã nổ súng tấn công nước ta thật rồi, vậy mà lúc nãy tôi còn nghĩ bọn chúng nổ mìn phá đá làm hầm hào công sự như mọi bữa. Tiếng đạn pháo nổ râm ran, đường đạn rít lên ghê rợn. Đạn địch bay rất gần, rất thấp, ánh chớp lửa bùng lên khắp xung quanh làm tôi hơi hoảng. Tôi vội mở khóa nòng khẩu AK lên đạn vì tưởng bộ binh của địch cũng đang tràn đến. Nhưng rồi tôi trấn tĩnh lại được ngay. Tôi nghĩ đến việc phải đảm bảo thông tin thông suốt nhanh chóng cho chỉ huy chiến đấu. Tôi liền nhảy ào xuống đất. Chiến sĩ Mông cũng đeo chiếc máy thông tin vô tuyến 884 nhảy theo.
Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi tiếp tục gào to để tôi nghe rõ mệnh lệnh vì tiếng đạn pháo của bọn Trung Quốc nổ ầm ầm át cả tiếng người:
- Ra ngay hang Ma Gà! Vị trí của chỉ huy tiểu đoàn ở đấy. Khẩn trương triển khai thông tin phục vụ chỉ huy chiến đấu! Rõ chưa?
- Báo cáo, rõ!
Tôi cũng gào lên đáp lại rồi cùng chiến sĩ thông tin lao về hướng hang Ma Gà, nơi đặt vị trí chỉ huy chiến đấu của Tiểu đoàn 3. Chúng tôi vừa chạy gằn, vừa bò từng đoạn. Nhiều khi phải nằm ép người lết dưới lòng con mương dẫn nước, nấp sau các bờ ruộng cao trên cánh đồng trống trải để tránh làn đạn từ phía bên kia biên giới bắn sang. Chúng tôi cố gắng cơ động thật nhanh về vị trí chỉ huy của tiểu đoàn. Bốn bề mịt mù khói lửa, tiếng nổ râm ran. Đạn pháo của địch bắt đầu bắn vào bản Cốc Vường, lửa cháy rừng rực.
Bầu trời một vùng biên giới sáng rực lên như ban ngày bởi những luồng lửa đạn của quân thù. Những luồng đạn giặc bay xé nát cả màn đêm. Tiếng đạn pháo quân thù đinh tai, chói óc, tiếng đạn súng 12ly7 từ trên mỏm núi cao có lô cốt Tàu Tưởng ăn sâu vào đất ta bắt đầu quét ràn rạt trên cánh đồng các bản Cốc Vường, Cốc Nghịu. Tiếng nổ của đạn súng 12ly7 đáng sợ hơn cả tiếng pháo. Trong các bản làng tiếng người nháo nhác gào gọi nhau thảm thiết, tiếng kêu khóc hoảng loạn của những người dân chưa đi sơ tán. Tiếng chó sủa, gà kêu, bò rống tan tác, vỡ đàn. Tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật. Mọi thứ âm thanh hỗn độn hoà vào nhau trong khói lửa, mùi thuốc súng và đất cát bụi mù mịt. Đó là những giờ phút đầu tiên của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc mà tôi đã được chứng kiến. Một cuộc chiến không thể lãng quên trong tâm trí của bao nhiêu người lính biên cương...
Lợi dụng ánh sáng của những luồng đạn bay trên bầu trời nên tôi và người chiến sĩ của mình định hướng được mỏm núi đá có hang Ma Gà. Chúng tôi nhanh chóng lao lên cửa hang mặc cho đạn địch bắn ầm ầm khắp thung lũng.
Thằng Mông đeo máy chạy sau tôi. Nó vấp ngã dúi dụi. Tôi vội đỡ chiếc máy vô tuyến 884 cho nó. Đến cửa hang chúng tôi nhanh chóng căng dây an-ten lên sườn núi, mở máy vô tuyến điện. Vừa mở máy tôi đã nghe thấy các hướng rối rít gọi về chỉ huy tiểu đoàn. Khi bọn Trung Quốc nổ súng, tất cả các tổ đài lập tức mở máy, chỉ có tổ đài vô tuyến ở chỉ huy tiểu đoàn là còn đang chạy ra hang Ma Gà là chưa mở máy. Tôi cũng không hiểu tại sao cơ quan tiểu đoàn bộ đêm ấy lại không ra vị trí chiến đấu mà vẫn ở trong bản Cốc Vường? May mà địch bắn pháo vào các trận địa xa trước, gần sau. Nếu bọn chúng bắn ngay vào bản Cốc Vường thì chưa biết chúng tôi sẽ ra sao?
Mạng thông tin vô tuyến điện sóng ngắn đã được thiết lập. Từ vị trí chỉ huy của tiểu đoàn đã thông liên lạc bằng mạng thông tin vô tuyến điện được với tất cả các hướng. Đêm Cốc Vường khi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 2-1979 nổ ra sẽ là một ký ức không bao giờ phai nhòa trong tôi…
Cao Bằng – 1979
Hà Nội, 10-2021
Ghi chép của Trọng Bảo
Ảnh: Đền thờ Nùng Chí Cao, một vị tướng trấn giữ biên cương thời Nhà Lý tại bản Cốc Vường, Sóc Hà, Hà Quảng, Cao Bằng.
Có thể là hình ảnh về ngoài trời

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét