Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019

Ghi chép CHÚNG TÔI Ở BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC - phần 10

CHÚNG TÔI Ở BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC - phần 10
Ghi chép của Trọng Bảo

Trong hình ảnh có thể có: ngoài trời
Ảnh trên: Xe tăng Trung Quốc bị bắn cháy tại Cao Bằng 2-1979

10- Ngày cuối cùng của chiến tranh
Đó là ngày 15 tháng 3 năm 1979. Ngày cuối cùng của một cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Sở dĩ tôi viết như vậy vì từ ngày 5-3-1979, Trung Quốc đã tuyên bố rút quân khỏi nước ta. Đến ngày 15-3, chúng mới cơ bản rút hết lực lượng qua khỏi đường biên trở về nơi chúng xuất phát sang xâm lược, tàn phá nước ta. Trong thực tế thì cuộc chiến tranh biên giới còn kéo dài thêm 10 năm nữa ở Vị Xuyên, Hà Giang. Hàng ngàn đồng đội của tôi tiếp tục ngã xuống sau "ngày cuối cùng của chiến tranh" ấy. Năm 1984, khi tôi làm cán bộ một đại đội ở Lạng Sơn thì máu chiến sĩ vệ quốc Việt Nam vẫn đổ ở bình độ 400, Cao Lộc, ở Bản Chắt, Đình Lập. Năm 1989, tôi dẫn các học viên sĩ quan đi thực tế tại Lạng Sơn còn chứng kiến sự hy sinh của những người lính chúng ta ở hướng Đồng Đăng...
Sở dĩ phần cuối cùng của ghi chép "Chúng tôi ở biên cương phía Bắc" hôm nay tôi mới đăng vì muốn đưa lên để ghi nhớ ngày này của 40 năm trước đây.
Ngày 15-3 của bốn mươi năm trước, là ngày bộ phận thất lạc lang thang trong vòng vây quân giặc của tôi gặp lại được đội hình của Tiểu đoàn 3. Buổi sáng hôm ấy, tôi dẫn ba chiến sĩ lần theo con đường độc đạo vượt dãy núi từ Thông Nông sang huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) để tìm đơn vị. Dọc đường đi tình hình có vẻ yên ắng. Tiếng súng chỉ thưa thớt ở đâu đó rất xa, dấu hiệu hành quân tác chiến của quân địch cũng không thấy. Tuy vậy, tôi căn dặn anh em phải hết sức cảnh giác, tránh đụng độ với quân địch thêm sự hy sinh, mất mát. Không biết thông tin bọn địch đã tuyên bố rút quân nên tôi rất thận trọng. Bốn anh em, mỗi người đi cách xa nhau một đoạn ngắn sẵn sàng chi viện cho nhau. Chiến sĩ đi đầu phải chú ý quan sát địch và dò đường, tránh vấp phải mìn của chúng gài bẫy. Chiến sĩ đi phải sau cũng phải cẩn trọng đề phòng địch phát hiện truy đuổi theo. Tôi đi giữa đội hình để chỉ huy. Do bị bọn địch, nhất là bọn lính sơn cước của chúng truy đuổi liên tục cả tháng qua nên tôi càng phải thận trọng.
Tôi vừa cố bước đi vừa thở dốc. Hôm trước do ăn uống thiếu vệ sinh, cơm ngô sống xít, uống lã ở nước khe suối nhiều xác động vật và cả xác người nữa nên tôi bị đau bụng dữ dội và đi ngoài liên tục gần lả đi. Sự việc từ cuối buổi chiều qua, vừa nhai một miếng cơm nắm xong thì bụng tôi bỗng quặn đau dữ dội. Sau đó, tôi bị "tào tháo" đuổi, đi ngoài ra toàn nước. Tôi đau bụng và đi ngoài liên tục không ngừng lại được. Người tôi mệt bã ra vì đau và mất nước. Tôi nằm rũ người trong một khe đá. Mệt đến nỗi chân tay không nhấc lên nổi. Cứ thế này thì nguy hiểm quá. Với sức khoẻ suy kiệt thế này chắc chắn ngày mai tôi không thể nào đi tiếp được nữa. Tôi đã nghĩ đến phương án phải ở lại Táp Ná với một số anh em dân quân của bản. Giữa lúc ấy thì anh dân quân bản và một người đàn ông vẻ gầy gò đến. Sau khi hỏi han tình hình của tôi, người đàn ông gầy gò nói:
- Chú phải uống một liều thuốc phiện thôi!
- Không được. Lỡ anh ấy bị sốc hay bị nghiện thuốc phiện thì làm thế nào?
Một chiến sĩ lập tức phản đối. Nó lo lắng cho tôi. Anh dân quân cũng đắn đo mãi rồi mới nói:
- Có lẽ không việc gì đâu!
Tôi vừa nghe họ bàn đến đấy đã phải ngồi dậy ôm bụng lần ngay ra phía sau gộp đá. Cơn đau vẫn quằn lên làm tôi chỉ muốn gục xuống. Người tôi hình như đã bị rút kiệt hết nước, hết sức lực rồi. Mệt quá, tôi phải bám vào vách đá mới đứng vững và lần bước đi từng bước. Quay về đến chỗ khe đá mọi người đang ngồi, tôi quyết định luôn:
- Đưa... thuốc phiện... cho tôi!
Thằng Châu và mấy chiến sĩ lo lắng. Nó cứ năn nỉ can ngăn tôi không nên uống thuốc phiện. Tôi vừa thở dốc vừa nói với nó và mọi người, cũng là tự trấn an mình:
- Điều quan trọng nhất bây giờ là khỏi bệnh thật nhanh để còn tiếp tục chiến đấu và hành quân theo anh em. Sống sót, thoát được ra khỏi vòng vây của bọn giặc rồi mọi chuyện tính sau!
Có lẽ mọi người đều hiểu đó là cách tốt nhất trong lúc này khi mà quân thù đang tiến đến rất gần, những người lính, người dân quân chỉ còn rất ít đạn, không có một cuộn băng cứu thương, một viên thuốc chữa bệnh trong tay.
Người đàn ông gầy gò, vừa trông đã biết ngay là một con nghiện nặng - thò tay vào túi lôi ra một gói nhỏ. Ông ta mở cái gói lấy ra một cục nhựa đen đen véo một mẩu nhỏ vê vê một lúc rồi đưa cho chúng tôi. Thằng Châu xiên mẩu thuốc phiện vào một cái que rồi bật lửa đốt. Mẩu thuốc phiện nhỏ bằng hạt đậu xanh bắt đầu cháy và toả khói xanh có mùi thơm rất lạ. Khi mẩu thuốc phiện đã phồng lên nở to bằng hạt ngô thằng Châu thả vào bát nước còn nóng rót từ trong bi-đông ra. Nó dùng cái que khoắng cho mẩu thuốc phiện tan hết rồi đưa cho tôi. Tôi run run bưng bát nước thuốc phiện đưa lên miệng rồi ngửa cổ uống một hơi hết sạch. Mọi người bảo tôi nằm xuống khe đá nghỉ một lát để lấy lại sức. Quả là một bài thuốc công hiệu. Tôi ngừng hẳn việc tiêu chảy. Bụng tôi sôi lên nhưng đã giảm và rồi hết hẳn những cơn đau quặn gan, quặn ruột.
Không biết bằng cách nào mà chập tối anh em đem cho tôi một bi-đông cháo còn nóng ấm. Ăn được chút cháo nóng tôi thấy mình như khoẻ lại. Đến nửa đêm tuy còn rất mệt nhưng tôi thấy có thể đeo khẩu súng đi theo đội hình hành quân được rồi. Thằng Châu và mấy chiến sĩ và anh em dân quân mừng lắm.
Sau này khi hành quân qua những triền núi toàn đá khô cằn gặp những dải đất hiếm hoi trồng loài cây anh túc đang trổ hoa lung linh huyền ảo tôi lại nhớ đến bát nước pha thuốc phiện mà mình đã uống hôm ở thung lũng Táp Ná giữa vòng vây trùng điệp của quân thù.
Nhưng chặng đường sang Nguyên Bình phải leo dốc tôi vẫn thấy chân tay rã rời, khẩu AK nặng trĩu trên vai. Đến gần trưa, chúng tôi mới vượt lên được dãy núi ngăn cách giữa hai huyện Thông Nông và Nguyên Bình mà không gặp bất cứ sự truy đuổi nào của quân giặc. Vậy là chúng tôi sắp gặp lại đơn vị cũ rồi. Khi lên đến đỉnh dốc của con đường mòn, chúng tôi nằm lăn ra cho đỡ mệt và để thở. Bầu trời trong trẻo. Nắng lấp loá trên những gộp đá xám lạnh. Buổi trưa nên cái rét cũng đã giảm hẳn rồi tuy những cơn gió vẫn còn se se lạnh.
Giữa lúc tôi đang mơ màng thì thằng Châu đang làm nhiệm vụ cảnh giới kêu lên:
- Có một đoàn người đông lắm từ phía Nguyên Bình đang đi lên dốc!
Tôi vội quờ khẩu súng ngồi bật ngay dậy lao vào nấp sau một mô đá. Chúng tôi sẵn sàng chiến đấu. Tôi gào to dặn anh em không được nổ súng. Nếu đúng là quân địch thì sẽ rút ngay vào trong khe đá phía sau.
Chúng tôi hồi hộp quan sát hàng quân đang bám theo con đường mòn tiến lên đỉnh núi. Thằng Châu chợt reo lên vui mừng:
- Quân ta! Quân... ta...
Đúng là quân ta rồi. Tôi nhận ra cái dáng đi luôn chúi người về phía trước của trợ lý tham mưu Bùi Thế Thọ và bước đi khoan thai của chính trị viên Hoàng Quốc Doanh ở tốp đầu hàng quân. Bọn chúng tôi cùng đứng bật dậy giơ súng lên trời khua khua làm hiệu. Các chiến sĩ trinh sát đi phía trước đội hình của tiểu đoàn cũng đã áp sát đến và nhận ra chúng tôi. Họ ào đến ôm lấy chúng tôi, tay bắt, mặt mừng. Tôi lập bập hỏi:
- Tiểu đoàn ta hành quân trở về để đánh chiếm lại Sóc Giang hả?
Mấy chiến sĩ trinh sát ngạc nhiên:
- Thế bọn mày không biết à? Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi nước ta từ mấy hôm trước rồi. Tiểu đoàn ta được lệnh quay về chiếm lĩnh, tổ chức xây dựng lại trận địa phòng ngự tại thị trấn Sóc Giang đấy!
Tôi ngơ ngác:
- Thế à! Bọn tao ở trong vòng vây có đài điện gì đâu mà biết! Thật khốn nạn quá! Bọn địch đang rút lui thế mà không hay. Mấy hôm trước gặp một toán giặc đang hành quân trở về, bọn tao còn tổ chức đánh một trận làm thêm mấy thằng trong bộ phận bị chết. Biết thế thôi đừng đánh nữa có phải chúng nó bây giờ vẫn còn sống không?
Tôi ngậm ngùi xót xa khi nghĩ tới những người vừa mới ngã xuống. Anh Thọ vỗ vỗ vào vai tôi an ủi:
- Chiến tranh ai biết thế nào mà nói trước…
Anh nắm chặt tay tôi. Tiểu đoàn trưởng Thiêm, chính trị viên Doanh cũng đã lên tới nơi. Mọi người xúm lại xung quanh chúng tôi hỏi han. Tôi cũng nhớn nhác nhìn mọi người. Vắng bóng mấy thằng quen biết, bạn thân. Tiểu đoàn rút sang Nguyên Bình tiếp tục tham gia chiến đấu bảo vệ khu mỏ thiếc Tĩnh Túc. Vì thế có thêm nhiều đồng đội của tôi đã ngã xuống ở Minh Tâm, Hoàng Tung để chặn con đường quân xâm lược tiến công vào khu mỏ thiếc…
*
Chúng tôi quay trở lại trận địa ở thị trấn Sóc Giang.
Thị trấn Sóc Giang đổ nát hoang tàn. Một tháng trước, nơi đây chính là “tọa độ lửa”, là nơi bao nhiêu đồng đội của chúng tôi đã ngã xuống. Máu của họ vẫn đọng trên mặt đất rưng rưng. Cũng chính tại nơi đây tiểu đoàn 3 chúng tôi đã bẻ gãy bao nhiêu đợt tấn công vô cùng ác liệt của kẻ thù xâm lược, tiêu diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy hơn chục xe tăng của chúng. Nhưng rồi, đơn vị chúng tôi đã phải rút lui để không bị tiêu diệt hoàn toàn trước sức tấn công ác liệt, liên tục của quân xâm lược với chiến thuật "biển người". Một cuộc rút lui còn gian lao, nguy hiểm hơn là một trận đánh mặt đối mặt với quân thù. Bây giờ chúng tôi, những người còn sống quay trở lại thị trấn biên giới Sóc Giang. Song hình như mọi người chúng tôi ai cũng có chung một tâm trạng bùi ngùi. Kẻ thù đã bị đánh lui, những tên bành trướng đã phải kéo nhau tả tơi tháo chạy về nước. Nhưng cái cảm giác chiến thắng, cảm giác tự hào trong những người lính chúng tôi rất mờ nhạt, hầu như không có. Không có cái niềm vui háo hức, tưng bừng của ngày 30-4 năm nào, chỉ có nỗi bàng hoàng, xót xa về sự tàn phá khủng khiếp, về sự mất mát quá lớn của chiến tranh. Một vùng biên cương hoang tàn. Chẳng còn một bóng người dân nào trong thị trấn, chẳng còn một tiếng gà gáy, chó sủa trong những bản làng dọc đường hành quân. Chúng tôi là những người đầu tiên trở về thị trấn Sóc Giang sau chiến tranh. Đoàn quân súng luôn cầm trong tay, cảnh giác, lầm lũi bước đi trong sự hoang vắng đến lạnh lẽo, thê lương sau trận chiến. Một đội hình cán binh quần áo tả tơi, bẩn thỉu. Nhiều người băng còn quấn trên đầu loang lổ màu máu, cánh tay bị thương gãy còn treo lên cổ.
Dọc con đường từ Quý Quân qua bản Nà Nghiềng vào thị trấn Sóc Giang in đậm những dấu vết khốc liệt của những trận đánh. Tất cả những căn nhà trong thị trấn đều bị đánh sập hoặc bị đốt cháy. Cây cối, cột điện gãy đổ ngổn ngang, các công trình dân sinh đều bị phá hủy. Mùi xác chết của người và động vật thối rữa khăn khẳn khắp nơi. Chỗ nào cũng gặp những quả mìn bọn địch gài lại trước khi rút đi. Bộ phận công binh đi trước mở đường. Chúng tôi phải rất cẩn thận đặt bước chân theo dấu đã vạch sẵn trên đường của công binh. Người đi sau bước đúng dấu chân của người đi trước để tránh dẫm vào bẫy mìn, vật nổ.
Đội hình hành quân một hàng dọc chậm chạp vừa đi vừa quan sát xung quanh. Không ai nói một câu nào chỉ nghe tiếng thở dốc của những người mang vác nặng ở bộ phận hoả lực, tiếng thì thào truyền đạt mệnh lệnh dọc hàng quân.
Đang đi bỗng một tiếng nổ “oành” ở phía sau đội hình. Đất cát bay mù mịt. Tất cả chúng tôi vội ngồi thụp xuống chĩa súng ra xung quanh, sẵn sàng chiến đấu. Những tiếng mở khoá nòng lách cách. Mọi người đều tưởng là bị bọn địch phục kích. Hoá ra không phải. Một quả mìn bọn giặc gài lại ngay bên cạnh lối đội hình đang hành tiến đi đã phát nổ. Người hy sinh là một chiến sĩ còn rất trẻ. Nguyên nhân là cậu ta đi giữa đội hình, lại có mấy cô gái ở đơn vị thanh niên xung phong đi ngay phía sau. Đang đi buồn tiểu tiện, cậu ta chỉ mới bước chệch có một bước định đứng khuất vào phía sau mô đá thế là đạp trúng luôn một quả mìn chống bộ binh của địch.
Sau vụ này, tiểu đoàn trưởng nổi cáu. Anh đi dọc hàng quân quát tháo ầm ĩ:
- Đánh nhau không chết, lại chết vì sĩ diện… ngu… ngu quá…
Quát tháo một lúc anh ra lệnh giọng vẫn còn gay gắt:
- Kể từ bây giờ cho đến lúc vào vị trí trú quân trong thị trấn, thằng nào buồn đái cứ đứng ngay giữa đường mà đái. Con gái cũng vậy. Ai xấu hổ thì nhắm mắt lại…
Tiểu đoàn trưởng nóng tính thì quát vậy thôi chứ tôi biết anh thương lính lắm. Cái chết của người chiến sĩ trẻ làm anh rất đau đớn. Sau một tháng chiến đấu, đơn vị tổn hao quá lớn, chỉ còn lại một nhúm người. Hôm tập trung đội hình toàn tiểu đoàn trên sườn núi để quán triệt nhiệm vụ lúc chuẩn bị xuống núi để chiếm lĩnh lại trận địa trông thưa thớt, thiếu vắng quá nhiều vị trí chiến đấu. Sau chiến tranh lại vẫn có người phải ngã xuống như vậy khiến ai cũng đau xót.
Đơn vị về đến vị trí đóng quân. Đó là đám ruộng ngay dưới chân mỏm núi có hang chỉ huy tiểu đoàn mà một tháng trước chúng tôi đã chiến đấu đánh lui bao đợt tấn công của bọn địch. Chúng tôi nhặt nhạnh những gì còn sót lại trong khu nhà vốn là trụ sở làm việc của huyện ủy và uỷ ban nhân dân huyện về dựng tạm những căn nhà một mái trông giống như những cái chuồng lợn để trú quân tạm thời và bảo vệ thị trấn và giải quyết hậu quả của cuộc chiến tranh. Các bộ phận lần mò lên các vị trí chiến đấu đào bới tìm kiếm liệt sĩ. Khắp nơi mùi thối rữa của tử thi, xác động vật bốc lên thật là kinh khủng. Việc xác định, phân biệt hài cốt đâu là quân ta, đâu là địch, đâu là dân cũng thật khó khăn. Mặc dù đã được chuẩn bị trước khi chiến tranh xảy ra, các bộ phận đều được cấp phát những tấm vải liệm may sẵn, mỗi người đều có mã số riêng của mình ghi trong một mảnh bìa cứng ép plastic để sẵn trong túi áo phòng khi hy sinh chôn theo sau này còn biết danh tính. Nhưng đánh nhau cả tháng trời nhiều người đã không giữ nổi mảnh bìa ghi mã số riêng của mình. Mà chớ trêu thay là người còn giữ được thì vẫn sống, người chết thì lại chẳng còn giữ được cái mã số để đánh dấu mộ chí của mình.
Con đường xuôi về phía ngã ba Đôn Chương ra thị xã Cao Bằng đã khai thông. Chuyến xe chở hàng đầu tiên đã lên tới thị trấn Sóc Giang. Đơn vị chúng tôi được tiếp tế lương thực, thực phẩm. Có một chút thịt lợn kho ướp muối. Mỗi chúng tôi còn được phát một bộ quần áo mới, một đôi giày vải mới. Thằng nào cũng diện ngay quần áo mới, giày mới. Ăn uống cũng no hơn nên trông dáng vẻ lính tráng khoẻ khoắn hơn. Nhiều thằng trông hai má đỡ hóp hơn, mặt mũi đỡ hốc hác như hôm đầu về thị trấn nhưng chưa hết vẻ nhợt nhạt, hậu quả của dài ngày đói khát, gian khổ.
Song chúng tôi chưa kịp mừng thì xảy ra một chuyện. Thì ra nguyên do đơn vị mới chuyển về vị trí bản Kép Ké Ná này trú quân, tiểu đoàn trưởng cho quân y kiểm tra nguồn nước. Nguồn nước mà các máng dẫn về bản từ rất xa trên núi. Dân bản thường đắp các đập trên núi rồi bắc máng dẫn nước tự chảy về bản. Y sĩ đơn vị chỉ đi đến chân núi rồi quay lại vì sợ lên núi vướng phải mìn hoặc gặp bọn thám báo của địch. Do đó không phát hiện là trên bờ đập nước có mấy xác người chết đang bắt đầu thối rữa. Khi trời mưa xuống đã gây ô nhiễm nguồn nước. Thế là cả đơn vị chúng tôi gần một tháng nấu ăn, lấy uống đã dùng nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Thảo nào mà nước cứ có mùi hôi hôi. Bọn lính tráng chúng tôi lại toàn uống nước lã mới ghê chứ. Một số anh em trong đơn vị vì thế nên ngã nước, mặt bị sưng phù thũng lên chứ không phải là do sau chiến tranh bộ đội được ăn no nên béo khoẻ...
Đó là những ký ức của tôi về ngày cuối cùng của một cuộc chiến tranh. Chúng ta đã xây một tượng đài để ghi nhớ những liệt sĩ ở đảo Gạc Ma-Trường Sa năm 1988. Xin hãy xây dựng thêm những tượng đài, không cần đồ sộ, không cần hoành tráng mà chỉ cần những tấm bia làm bằng chính đá núi nơi địa đầu này để ghi nhớ và tưởng niệm về sự hy sinh của những người lính, người dân trên tuyến biên cương phía Bắc trong cuộc chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc thân yêu tháng 2-1979.
(Hết) Hà Nội, 15/3/2019

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét