Lời tác giả: Truyện ngắn Đáy vực được đăng Báo Văn nghệ trẻ số 51 (21/12/2008) nhân dịp Kỷ niệm 64 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam. Tác giả chân thành cảm ơn nữ nhà văn Phong Điệp đã góp ý sửa chữa và biên tập truyện ngắn này.
Đáy vực
Truyện ngắn của Trọng Bảo 1- Chuyện ma đi đò
Con sông Đáy chảy đến đầu làng Vực thì bị bẻ gập lại. Dòng nước xiết đâm thẳng vào một mỏm đá bật trở lại một đoạn rồi mới có lối chảy về xuôi. Nơi dòng sông bị gấp lại tạo nên một vùng xoáy nước lớn, sôi sùng sục như một cái chảo khổng lồ khi mùa lũ lớn. Những người đi bè từ thượng nguồn về đến đây thường phải chèo chống rất vất vả mới thoát khỏi cảnh bị quay vòng mấy bận trong xoáy nước này. Ngày học cấp 2, chúng tôi thường ra sông tắm. Mùa hè, bọn con gái thả những cánh hoa phượng xuống chỗ xoáy nước. Những cánh hoa phượng loang ra như vệt máu quay tròn.
Một hôm mới sáng ra, những người đi chợ sớm hốt hoảng nhìn thấy thi thể một cô gái lập lờ trong vùng nước xoáy. Cô gái không mặc gì trên người. Một mảnh khăn buộc ngang bụng rách tả tơi. Ngực cô nham nhở những vết xước. Dân làng Vực đưa cô gái lên bờ. Các bà các chị vừa khóc vừa tắm rửa, mặc quần áo cho cô. Cô gái còn rất trẻ. Cặp vú như hai ngọn măng mới nhú. Cô bị cưỡng hiếp rồi bị đẩy xuống sông. Công an huyện chưa cho chôn cất ngay vì còn khám nghiệm tử thi và chờ tìm thân nhân. Nhưng chờ đến hơn một ngày, không thấy ai đến nhận xác, dân làng Vực mới được phép chôn cất. Đám ma cô gái chết trôi sông rất đông. Cánh con gái lớp tôi tết cho cô một vòng hoa bằng những chùm phượng vĩ đỏ như máu.
Từ đó, chúng tôi không dám ra tắm ở chỗ dòng sông gẫy khúc ấy nữa.
Bà Thường làm nghề chèo đò chở khách sang ngang ở bến sông Làng Vực. Anh Thưởng, người con trai duy nhất của bà đi bộ đội. Một mình bà với một niêu cơm nhỏ trong túp lều rách trên bến sông. Những buổi chợ phiên, người qua đò đông, nhiều bữa bà chả kịp nấu cơm. Bà gò lưng ghì chặt mái chèo lựa cho con thuyền vượt qua vùng nước xoáy. Đêm đêm nghe tiếng gọi "Đò ơi!", thì dù mưa gió, giá rét bà cũng lập cập khoác chiếc áo tơi, cởi dây chèo thuyền sang sông đón khách. Bà bảo: "Mình lỡ một giấc ngủ không sao nhưng để khách lỡ một độ đường thì cực lắm!".
Từ hôm có cô gái chết trôi về vùng nước xoáy ở bến sông làng Vực thì rất ít có khách qua sông vào lúc đêm khuya. Người ta đồn rằng nhiều đêm nghe tiếng gọi đò bên kia sông, bà Thường chèo thuyền sang đều gặp khách là một cô gái mặc quần áo trắng tinh đứng đợi. Nhưng lần nào đò đến giữa sông thì cô ấy cũng biến mất. Có người làm nghề chài lưới trên sông thì bảo nhiều lần nhìn thấy bóng một người con gái ngồi trên chỗ xoáy Vực, đôi mắt cô đỏ rực như lửa.
Chuyện ma ở bến sông mỗi người nói một phách và ngày càng thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ khiến bọn trẻ con chúng tôi sợ hãi. Lớn lên, tôi mới hiểu đó toàn chuyện người lớn phịa ra để dọa lũ trẻ không xuống bến tắm khi lũ lớn dễ chết đuối. Nhưng có những chuyện thì tôi không hiểu nổi, đó là từ sau khi cô gái chết trôi về bến sông làng Vực thì hầu như năm nào chỗ nước xoáy ấy cũng có người bị chết đuối. Mà người chết toàn là đàn ông mới lạ. Có những thi thể từ đâu trôi về. Ở vùng thượng nguồn khi có người bị lũ cuốn trôi, người nhà thường đem hương nhang, có khi cả quan tài đến xoáy Vực chờ sẵn. Thể nào xác thân nhân họ cũng sẽ dạt về đây.
Lão Phụ làm nghề quét chợ thì bảo cô gái bị chết dạo nọ được vua Thủy Tề nhận làm con nuôi và cho phép bắt chín mươi chín người làm quân hầu. Nhớ lại nỗi oan ức, cô giết toàn đàn ông rồi kéo xác về nơi bến sông làng Vực. Anh Hừng bị thọt chân nên không phải đi bộ đội. Anh là tay sát cá và bơi lặn giỏi. Trên cạn, anh đi lại khó khăn nhưng khi xuống nước thì như một con rái cá. Anh chả tin câu chuyện ma quỷ của lão quét chợ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, anh Hừng đều lặn xuống chỗ xoáy nước bắt cá. Chẳng cần lưới vó gì, chỉ tay không lặn xuống, ngoi lên hai tay anh cầm hai con cá chép lấp loáng vây đỏ, hai nách kẹp hai con, mồm ngậm một con. Cả thảy là năm con. Mỗi con độ bảy tám lạng đến một cân. Anh đem lên chợ bán. Chúng tôi thắc mắc hỏi anh giỏi bắt cá thế sao không lặn liền mấy hơi bắt lấy vài chục cân lên chợ mà bán. Anh cười hì hì: "Dưới đáy vực cá nhiều lắm nhưng bắt làm gì nhiều, chỉ đủ tiền đong gạo thôi". Tôi hỏi: "Anh có gặp ma không?". Anh trợn mắt dọa: "Có chứ! Mắt nó đỏ rực. Nó chỉ con cá nào, anh mới dám bắt con đó"...
- Ha... ha... ha... - Nghe tiếng cười sau lưng, chúng tôi giật mình quay lại nhận ra đó là anh Thú. Anh Thú là con ông đồ Hạo. Ông đồ Hạo là người khá giả. Ông nuôi anh ăn học đầy đủ, nhưng anh tính tình hung bạo, không chịu nghe lời bố. Khi nhỏ anh ấy thường trốn học đi chơi. Lớn lên, anh bỏ nhà đi biệt tăm. Nghe nói anh đi đào đãi vàng, tham gia nhiều vụ đâm thuê, chém mướn, bảo kê cho bọn buôn lậu. Anh bị bắt đi tù. Lúc ra tù, người anh xăm trổ đầy những hình thù quái dị. Cả làng đều sợ anh. Nghe chúng tôi kháo chuyện ma ở xoáy Vực, anh phá lên cười và chìa ra một cái gói vuông vuông bảo:
- Chúng mày biết cái gì đây không?
- Không biết ạ!
- Thuốc nổ đã gắn kíp rồi đấy!
- Ôi trời... - Chúng tôi hốt hoảng chạy rạt về một góc. Anh Thú cười sằng sặc bảo:
- Theo tao ra xoáy Vực mà lấy cá.
Lũ chúng tôi tuy sợ hãi nhưng vẫn rẹo rọ đi theo, cách anh khá xa. Đến xoáy Vực, anh Thú đứng trên mỏm đá. Rít một hơi cho điếu thuốc đỏ rực rồi anh dí vào dây cháy chậm. Khói xì xì ra mấy giây anh mới thả quả bộc phá xuống vực. Một tiếng nổ trầm đục, nước tung lên tận ngọn tre. Sóng chưa kịp lặng cá đã nổi lên trắng mặt nước. Bọn cá mương, cá trôi chết ngay nổi như phao. Lũ cá chép, cá bống thì còn cố quẫy quẫy rồi lờ đờ rạt vào bờ. Trẻ con, người lớn ào xuống, tranh cướp cá náo loạn cả khúc sông.
Anh Thú ngồi trên bờ hút nốt điếu thuốc. Những người vớt cá bắt đầu lên bờ vì rét. Khi đi qua chỗ anh Thú, họ đều khép nép và để lại cho anh một con cá to nhất. Khi anh Thú vừa túm cái bao tải đựng đầy cá lại thì có tiếng người gào lên:
- Cá... cá... có một con cá to quá. Nó bị thương rồi!
Mọi người đổ xô lại. Giữa xoáy Vực, một con cá to gần bằng thân người đang nổi lên lập lờ, đuôi ngoe nguẩy. Nhiều người ào xuống nước lao đến ôm lấy con cá. Con cá quẫy mạnh, cố lặn xuống. Nhưng nó bị sức ép quá mạnh của quả bộc phá nên đã choáng váng, kiệt sức. Con cá được đưa lên bờ. Nó nằm dài trên bãi cát trắng nhởn. Đôi mắt mở trừng trừng, đỏ rực. Nhìn con cá, bất giác tôi chợt thấy nó tựa như cô gái trẻ bị chết trôi dạo trước. Theo lệnh của anh Thú, người ta xẻ thịt con cá. Máu nó chảy đỏ cả bến sông.
Khi tôi nhập ngũ thì nghe tin anh Thú lại ném một quả mìn nữa xuống xoáy Vực. Quả mìn anh vừa buông khỏi tay đã phát nổ. Anh bị cụt cả hai tay và mù một mắt. Giờ thì anh ngồi lê la ăn xin ở chợ.
Anh Thưởng về phục viên. Mấy lần về quê qua đò anh đều nhận ra tôi. Mặc dù ngày anh đi bộ đội tôi còn rất nhỏ. Anh Thưởng về làng đã lâu nhưng chả thấy nói đến chuyện vợ con gì. Ngày còn ở nhà anh yêu một người con gái. Hai người đã thề non, hẹn biển, trao kỷ vật cho nhau. Anh vào Nam chiến đấu trong ba lô còn giữ cái vỏ gối do người yêu thêu tặng có bốn chữ "mãi mãi yêu anh" và hai con chim bồ câu ngậm mỏ vào nhau. Nhưng trong khi anh cố tìm cách viết thư gửi về thì ở nhà người thêu gối đã đi lấy chồng. Ngày chiến thắng anh trở về bến sông đã chẳng còn người đứng đợi. Anh Thưởng được xã bố trí làm một chân bảo vệ. Từ ngày anh làm bảo vệ, tình hình an ninh trong làng, ngoài xóm yên hẳn, ít xảy ra các vụ ăn cắp vặt, hoa màu ngoài ruộng không bị mất trộm như trước. Cũng có người hỏi chuyện vợ con nhưng anh chỉ cười trừ. Mẹ chết, anh trả cái chức tổ trưởng bảo vệ về bến sông với con đò của bà để lại.
Khi người ta bắc một chiếc cầu cách xoáy Vực hơn chục cây số về phía hạ lưu thì khách qua đò thưa hẳn. Bây giờ có xe máy, người ta qua cầu có xa hơn cả chục cây số nhưng tiện hơn. Cũng kể từ khi mua được chiếc xe máy tôi chả bao giờ qua bến đò nữa nên chẳng mấy khi gặp anh Thưởng.
Bẵng đi mấy năm. Một trưa tôi đang ăn cơm thì nghe tiếng trẻ con léo nhéo gọi cổng. Thằng con tôi ra mở cổng rồi dẫn vào một lũ trẻ con đến bốn năm đứa. Nó lấy ra một ôm báo cũ chia cho mỗi đứa mấy tờ. Thì ra lũ trẻ con xin báo về bọc sách vở chuẩn bị năm học mới. Chia đến đứa con gái bé nhất, thằng con tôi hỏi:
- Cái Sương năm nay lên lớp một hả?
- Vâng ạ. - Con bé ngoan ngoãn đáp.
- Cho mày thêm hai tờ nữa.
- Em cảm ơn anh...
Tôi hỏi:
- Con bé ấy là con nhà ai vậy?
- Nó là con anh Thưởng lái đò. - Vợ tôi đáp: - À! Mà anh ấy dặn anh về rỗi rãi ra nhà anh ấy chơi.
- Có nghe nói anh ấy lấy vợ bao giờ đâu nhỉ?
- Con nuôi đấy!
- Anh ấy xin ở đâu được đứa con gái xinh xắn thế nhỉ?
- Xin gì! Người ta bỏ lại cho mà nuôi đấy!
Vợ tôi kể, một buổi sáng mùa đông rét như cắt thịt da, sương mù giăng kín mặt sông, chẳng rõ mặt người. Có một người đàn bà gọi đò. Chị ta chùm khăn kín mặt tay xách cái làn to bước xuống thuyền. Anh Thưởng xoa xoa hai bàn tay cho đỡ cóng rồi lịch kịch đẩy con thuyền rời bến. Sương mù càng dày đặc. Người lái đò và khách chỉ nhìn thấy nhau lờ mờ. Sang đến bến bên kia, người đàn bà vội vã đi ngay, hẹn chiều về trả tiền đò cả thể. Anh Thưởng quay mũi thuyền. Trời trở gió, thuyền bị xô mạnh chòng chành. Chợt anh nghe tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc hình như rất gần. Vụt nghĩ đến chuyện ma đi đò mẹ vẫn kể, anh cũng thấy hơi run. Nhưng vốn là một chiến sĩ trinh sát, anh trấn tĩnh và nhận ra tiếng khóc ở ngay mũi thuyền. Anh bỏ tay chèo lần tới phát hiện ra cái làn của người khách lúc nãy để lại. Anh bật lửa. Trong làn có một đứa trẻ con đang quẫy đạp. Thấy ánh lửa, nó nín khóc ngay, hai tay huơ huơ lên như muốn với lấy anh. Đôi mắt nó sáng như hai viên ngọc. Anh thọc tay vào làn và chạm vào một bình sữa còn nóng ấm. Thì ra người mẹ này đã có ý định bỏ lại đứa con của mình.
Anh Thưởng bế đứa bé lên bến suốt ngày ngóng đợi. Nhưng người đàn bà không quay lại. Anh Thưởng đành nuôi đứa bé. May cô em gái họ cũng mới sinh cho nó bú ké. Con bé lớn lên cùng anh trên con thuyền rách. Bao nhiêu người khách là phụ nữ nuôi con mọn qua đò đã cho nó bú nhờ. Anh đặt tên nó là Sương vì nhặt được nó trong một buổi sớm sương mù dày đặc.
Anh Thưởng rất yêu quý bé Sương. Hai bố con quấn quýt bên nhau. Năm bé Sương hai tuổi đột nhiên anh nhận được một lá thư từ nước ngoài gửi về. Thư của một người đàn bà mà với anh chẳng xa lạ gì. Đó chính là người đã tặng anh cái vỏ gối thêu chữ có hai con chim bồ câu ngậm mỏ nhau. Đọc thư, anh mới biết bé Sương là con chị ta. Chị ta đã chủ định để nó lại trên thuyền cho anh để khỏi vướng khi làm thủ tục xuất cảnh theo một người đàn ông ra nước ngoài định cư. Chị ta tỏ ra hối hận, xin anh tha thứ đã phụ tình còn để lại thêm một gánh nặng cho anh. Chị ta hứa sẽ gửi tiền về chu cấp cho bé Sương. Đọc thư, mặt anh tái đi vì giận dữ. Đúng là đồ vô sỉ. Anh đã viết cho chị ta một bức thư yêu cầu nếu còn lương tâm thì hãy để cho bé Sương được yên. Anh sẽ nuôi nó lớn khôn mà không cần những đồng tiền của chị ta...
Những câu chuyện xung quanh bến sông làng Vực còn rất nhiều. Chuyện vui, chuyện buồn đều có cả. Viết đến đây tôi định khép lại chuyện thì lại có thêm một sự kiện nữa xảy ra ở xoáy Vực.
Hà Nội,7-2008
Hà Nội,7-2008
(Hết phần 1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét