TRĂNG LẠNH
Truyện dài của Trọng Bảo
Lão Vận ngồi thu lu trong một lùm cây sát bờ sông. Trời vẫn chưa tối. Vẫn còn một vài chiếc máy bay Mỹ lởn vởn trên đỉnh núi Tam Đảo. Bọn chúng nấn ná đợi thời cơ lao xuống bắn phá Hà Nội thêm một lần cuối, trút hết số bom mang theo trước khi phải quay về căn cứ.
Lão Vận vừa mới ở nơi sơ tán trở về. Lão không về ngôi nhà của mình ở bến sông. Vì lão sợ trời chưa tối hẳn sẽ bị dân quân và công an đi tuần tra trông thấy nhắc nhở là không chấp hành nghiêm mệnh lệnh sơ tán phòng tránh máy bay Mỹ mà các cán bộ làng xã đã phố biến. Bữa nay, lão về sớm vì trời sắp mưa to. Đầu mùa hạ mà có mưa rào là cá sông sẽ lên bãi vật đẻ. Lão về để chuẩn bị vó lưới bắt cá. Lão còn có ý chờ thằng Nam là dân quân trực chiến ở trên trận địa Đồi Ma xuống để cùng đi bắt cá. Con chó Cún ngồi trong lùm cây với lão một lúc đã thấy khó chịu. Nó cào cào hai chân trước xuống đất miệng gừ gừ có ý xin phép lão để phóng ra ngoài bãi tìm chuột. Lão Vận vỗ vỗ vào đầu nó bảo:
- Thôi được, mày đi đi nhưng đừng chạy nhông nhông lên bờ đê kẻo ai trông thấy nhé!
Con chó rên lên ư ử vì vui mừng. Nó phóng vút ra bãi sông đầy những bụi cây dền gai và cỏ dại. Tiếng nó sủa rối rít khi phát hiện ra một cái hang chuột trong bụi rậm.
Lão Vận gãi gãi cái ông chân khô đét. Ngứa quá. Suốt cả ngày lão hì hục trong khu rừng ở nơi sơ tán đặt bẫy chim, đào củ sâm đất về đun nước uống bị bọn muỗi vằn đốt nên ngứa ngáy, khó chịu. Lão muốn lao xuống dòng sông Đáy trong xanh tắm cho mát nhưng vì trời vẫn chưa tắt nắng nên còn ngại. Lão Vận vòng tay qua đầu nằm xuống đất. Đôi mắt lão lim dim. Lão nghĩ về cuộc đời mình. Lão không buồn về sự cô đơn. Lão chỉ thấy hơi buồn về thời thế. Lão sống một mình trên bến sông, không ruộng đất, không nghề nghiệp, không vợ con. Vợ con lão chết sau trận bom của Pháp năm ấy cùng rất nhiều người nữa ở trên bến sông này. Lão ở đây để hằng năm làm giỗ cho vợ con. Khi bọn Mỹ chưa dùng máy bay mang bom ra miền Bắc, chợ Niễu họp ở ngay trên bến sông này. Trên bến dưới thuyền rất thuận tiện. Lão Vận được chính quyền giao cho làm nghề quét chợ để có chút thu nhập, ổn định cuộc sống.
Thực ra thì lão Vận đã quét chợ Niễu từ trước khi được chính quyền cho làm việc này một cách chính thức.
Lão Vận nhớ ngày ấy mỗi lần bước vào chợ đàn nhặng xanh thấy động vù vù tạo nên những âm thanh u u u... Buổi chiều chợ không họp, chỉ có một hàng thịt chó phía ngoài cổng của một tay chuyên giết mổ lũ cẩu. Thỉnh thoảng gã này còn bán cả thịt hươu nai cánh thợ săn bắn được trên dãy núi Tam Đảo đem về. Còn thịt lợn thì duy chỉ có bán ở trong cửa hàng thực phẩm mậu dịch quốc doanh ở ngay cổng chợ. Ai có tem phiếu hoặc giấy viết tay của lãnh đạo mới mua được thịt lợn trong cửa hàng thực phẩm này. "Cả đời mình có lẽ cũng không bao giờ bước vào cái cửa hàng thực phẩm của nhà nước này!" - Mỗi lần vào chợ đi qua cái cửa hàng thực phẩm lão Vận thường có ý nghĩ như vậy. Vào đến khoảng đất trống giữa chợ, Lão Vận ném cái chổi và cái xẻng cùn xuống đất. Việc đầu tiên của lão là cầm cái bao tải rách đi thu hồi “chiến lợi phẩm”. Đó là những thứ mà những người mua bán buổi sáng còn bỏ lại. Lão nhặt nhạnh những hạt bí, hạt mít lão để riêng đem rửa sạch, phơi khô, tích lũy phòng khi giáp hạt hết gạo. Hạt nhãn, hạt vải lão nhặt đem lên đồi hoặc ngoài bãi hoang vùi xuống đất mong sẽ có hạt nảy thành cây, đơm hoa, cho quả.
Sau khi nhặt nhạnh khắp chợ, lão bắt đầu quét dọn. Lão quét kỹ từng dãy lều quán, đùn rác về phía cuối chợ. Chợ quê nghèo, chỉ là những cái lán che bằng rơm rạ, thấp lè tè. Cách nhật chợ mới họp một phiên. Người ta gánh hàng đến, trải một mảnh ni lông hoặc bày luôn ra đất để bán. Những thứ thải loại, rác, vỏ dưa, vỏ dừa vứt ngay tại chỗ. Lão Vận quét dọn cật lực hơn một ngày chợ mới sạch sẽ. Rồi chợ lại họp, rác rưởi lại ngập ngụa, lão lại dọn dẹp vào buổi chiều và cả hôm sau ngày chợ không họp. Cứ như thế, lặp đi, lặp lại công việc của đời người quét chợ.
Thực ra, lão Vận mới chỉ làm người quét chợ được độ bảy, tám năm nay. Trước kia, lão là người chuyên chở đò ngang sông Đáy. Dòng sông Đáy mỏng manh như một sợi chỉ nằm dưới chân núi Tam Đảo. Nhưng khi mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về, dòng sông phình ra, cuồn cuộn. Lúc mùa khô, những tháng cuối năm thì nước lại trong veo, sâu chỉ săm sắp bắp chân nhìn rõ cả cá, tôm và đá sỏi dưới đáy. Ngày ấy, lão Vận cũng chỉ chèo đò theo mùa nước. Mùa khô, nước sông Đáy rất cạn, người ta có thể lội qua. Khi ấy lão lôi con thuyền lên bãi rồi vào rừng chặt củi khô bán kiếm tiền đong gạo hoặc gánh nước thuê cho mấy bà bán bún phở trong chợ. Chợ quê ngày ấy không có người quét “chuyên nghiệp” như bây giờ nên rác rưởi ngập ngụa, bẩn thỉu. Mấy bà bán hàng thường phải thuê lão quét dọn quán của mình. Rồi gần như cả chợ mọi người đều thuê lão quét tước chỗ ngồi bán hàng. Dần dà, lão trở thành người quét chợ thuê. Tiếng là thuê, nhưng không phải ai cũng trả tiền cho lão, mà có trả cũng chẳng đáng kể. Bà bán cá thường trả công lão cái đầu cá mè. Anh hàng thịt chó đưa lão một mẩu xương, hôm nào hứng lên cắt cho một đoạn dồi dài độ gang tay. Thường là người ta cho lão hai, ba hào. Nhưng phần lớn là làm ngơ, mặc dù buổi chợ, họ vẫn nhìn thấy lão gánh nước thuê vào các hàng quán. Lão Vận cũng chẳng đòi hỏi. Trước đây, lão quét thuê từng chỗ bán hàng cho các chủ sạp thì họ dứt khoát phải trả tiền. Đến khi lão quét cả chợ thì lại như làm không công. Gần đây, chắc nhiều người có ý kiến, ông chủ tịch xã cân nhắc, nâng lên đặt xuống mãi mới quyết định “trả lương” cho lão bằng năm ki-lô-gam gạo một tháng. Nghe ra thì có vẻ to nhưng kỳ thực cũng chỉ bằng ba, bốn đồng. Thôi thế cũng tốt, lão Vận có một khoản thu nhập ổn định, đỡ lo hơn khi giáp hạt. Đời lão cũng đã xế chiều rồi, cần gì hơn nữa đâu.
Thường là hằng ngày quét xong tất cả các dãy quán trong chợ thì trời đã sập tối, lão Vận thu các thứ “chiến lợi phẩm” ra về. Đống rác góc chợ ngày mai lão mới đốt hoặc gánh ra đổ ngoài bờ sông. Hôm nào cũng vậy, tối mịt lão mới lần bước về nhà.
Về đến gần cổng nhà, lão Vận huýt sáo và gọi:
- Anh Cún đâu rồi!
- Hực... - Một con chó to từ trong nhà phóng ra vẫy đuôi mừng rối rít. Nó ngoạm lấy ống quần của lão kêu ư ử. Lão Vận vỗ về:
- Đói lắm rồi hả! Để yên, tao nấu cơm cho mà ăn. Hôm nay có cái đầu cá trắm của bà Thơm cho đây này!
Con chó phóng lên hè. Nó chồm hai chân trước đẩy cánh cửa mở ra rồi quay lại cào cào xuống đất ý mời lão vào nhà. Lão Vận châm đèn, tìm nồi nấu cơm. Con Cún cứ luẩn quẩn quanh lão. Thấy lão nhặt rau, nó cũng ngoạm một cọng rau muống cắn ra làm mấy đoạn. Lão vỗ vỗ vào đầu nó an ủi:
- Yên nào! Mày không làm được đâu!
Lão quay lại đun củi vào bếp. Con chó nhổm dậy. Nó dùng miệng ngoạm một cành củi đủn vào bếp. Đôi mắt nó sáng long lanh nhìn lão Vận như muốn hỏi làm như vậy có được không. Lão Vận gật gật đầu. Con Cún rên lên ăng ẳng vẻ phấn khởi lắm.
Nấu cơm chín, lão Vận chia ra làm hai phần. Một loa cơm của lão. Phần còn lại lão đổ vào cái lon sành cho con Cún. Cái đầu cá nấu canh lão chỉ gỡ được một chút thịt còn lại cho con chó cả. Con Cún vừa ăn vừa gừ gừ trong miệng. Nó có vẻ đói lắm. Cả ngày nó chỉ được ăn một bữa. Buổi sáng trước khi ra chợ, lão dặn nó: “Trông nhà nhé!” rồi đi. Buổi trưa, lão ở luôn ngoài chợ. Ai cho gì, lão ăn nấy, khi thì bắp ngô, lúc là khúc sắn luộc. Con Cún ở nhà, nó loanh quanh chui ra, chui vào túp lều. Đói quá thì nó lại lôi mấy khúc xương trâu, xương lợn khô khốc từ trong gầm giường ra gặm suông để đánh lừa cái bụng. Biết thế nhưng lão Vận không thể đưa con chó ra chợ được. Nó to lớn chạy lông nhông ai cũng khiếp, với lại lão sợ nhất là bọn chuyên bắt trộm chó. Bữa tối, bao giờ lão cũng dành phần cơm nhiều hơn cho nó. Vài năm gần đây lão mới được ăn cơm, dù là độn sắn, độn khoai. Trước kia khẩu phần của lão chủ yếu là sắn. Họa hoằn lắm mới có cơm. Nồi cơm chỉ lơ thơ vài hạt gạo bám quanh miếng sắn. Tàn tật, ốm yếu như lão có cái mà ăn là may lắm rồi. Con chó hình như cũng hiểu lão nghèo nên cho gì nó ăn nấy. Nồi cơm, nồi canh lão để ngay dưới đất nhưng dù là có đói đến mấy nhưng không bao giờ nó lén ăn vụng. Nó là con vật trung thành. Lão Vận bảo nó coi nhà mặc dù nhà lão chẳng có thứ gì đáng coi nhưng đố ai dám lại gần túp lều của lão. Những ngày chợ không có phiên, lão Vận mới cho nó đi theo. Trong khi lão dọn dẹp, quét tước thì con Cún lùng sục khắp chợ đuổi chuột hoặc tìm kiếm những khúc xương mà cánh giết mổ quăng ra đâu đó.
Con chó là do lão nhặt được từ mấy năm trước. Hôm ấy, trời đã sâm sẩm tối, lão vẫn lội xuống sông để rửa một nắm hạt mít và giặt một mảnh vải bạt nhặt được ở chợ. Mưa ở thượng nguồn nên nước sông đang lên. Lúc lão đang chuẩn bị về thì chợt có một cái bao tải buộc túm miệng từ đâu trôi đến rạt vào chân lão. Lão giật bắn người vì trong đó có cái gì ngọ nguậy. Lão loạng choạng bước vội lên bờ, thở dốc. Ngày giặc Pháp còn chiếm đóng bên kia sông là vùng tề, bọn giặc bắt được cán bộ du kích thường đưa lên phía đập nước gần cây câu sắt tra tấn dã man. Có khi người bị đánh còn ngắc ngoải chúng cũng nhét vào bao tải thả trôi sông. Những xác người lập lờ dạt vào bến nước. Nhưng bây giờ là thời khác rồi. Lão Vận trấn tĩnh lại. Lão nhặt cành cây khều cái bọc vào lôi lên mở dây buộc dốc ngược. Lẫn trong đám giẻ rách tuột ra một con chó nhỏ. Nó ướt sũng nhưng vẫn còn ngọ nguậy. Lão đem nó về nhà đặt cạnh bếp lửa. Một lúc sau nó bắt đầu rên ư ử rồi ngóc cổ dậy. Nó nhìn lão, mắt chớp chớp vẻ biết ơn. Nhìn thân hình con chó còm nhom, sần sùi ghẻ lở, lão hiểu vì sao họ đã nhét nó vào bao vứt xuống sông. Lão Vận vét cơm nguội cho nó ăn. Hôm sau, lão xin ít diêm sinh về bôi trị ghẻ cho nó. Con chó ở với lão Vận từ đó. Mặc dù cũng bữa đói, bữa no, miếng được, miếng mất như lão nhưng con chó vẫn hồi sức và lớn nhanh. Sau một thời gian con chó đã to lớn lộc ngộc. Nó khôn lắm. Có lần bọn trộm chó đem bả ném đợi nó ăn ngã xuống là tuồn vào bao tải đem đi. Nhưng nó chỉ ngửi mà không ăn. Ai cho cái gì nếu không được sự đồng ý của chủ thì nó không bao giờ tự ý ăn cả. Thấy con chó khôn, có người muốn mua, nhưng lão không chịu. Con Cún là bạn thân thiết của lão Vận. Khi máy bay Mỹ ném bom ra miền Bắc, chợ Niễu sơ tán mãi trong rừng cọ sau làng Hạ. Người ta ngồi ngay dưới gốc cây để mua bán, rác vứt luôn ra rừng nên không cần người quét chợ nữa. Lão Vận ở lại bến sông kiếm cá bán đong gạo. Khi ngày dân quân xây dựng trận địa trên Đồi Ma lão Vận hay mang cá bắt được ở sông Đáy lên biếu họ. Từ đó, sau các buổi trực chiến thằng Nam hay xuống bến sông theo lão đi bắt cá. Thằng Nam rất nhanh nhẹn lại sát cá. Có thằng Nam giúp sức cất vó, cắm đăng chắn cá khiến lão Vận thấy rất vui. Lão coi nó như con. Nhiều bữa bắt được nhiều cá lão bảo nó mang một ít về nhà cho mẹ và em. Ở vùng quê nghèo này quanh năm cơm độn sắn, rau muống luộc chấm nước muối để có con cá kho tương mà ăn là chuyện không phải đơn giản...
Lão Vận mải suy nghĩ không biết trời đã tối từ lúc nào. Có tiếng con cún sủa và rên ư ử vì vui mừng. Hóa ra con chó đã phát hiện ra thằng Nam đang đeo khẩu K44 đi đến. Nó ngoạm vào ống quần thằng Nam kéo ra chỗ lão Vận đang ở lùm cây cạnh nhà. Nghe tiếng chân thằng Nam lão Vận liền ngồi dậy hỏi:
- Tối nay không phải trực chiến à?
- Không ông ạ.
Thằng Nam vừa đáp vừa đưa cho lão Vận một cái gói vuông vuông. Lão Vận ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì thế này?
- Lương khô đấy ông ạ! Ông ăn đi cho đỡ đói.
- Mày lấy đâu ra thế?
Hôm nay chúng cháu đi cứu giúp một chiếc xe của bộ đội chở đạn dược bị sa lầy. Phải chuyển hết đạn xuống cho nhẹ mới kéo được xe lên. Đến quá trưa mới xong công việc. Xong xuôi các anh ấy mời ăn lương khô. Cháu xin một phong về biếu ông ăn thử.
Lão Vận cầm phong lương khô 701 mở lớp giấy gói ra xem rồi cắn thử một mẩu nhỏ. Lão ăn chậm rãi. Nó giống như một miếng bánh khảo nhưng hương vị thì lại khác hẳn. Vừa ăn, lão Vận vừa bảo thằng Nam:
- Trời sắp mưa. Tối nay mà mưa to nước sông sẽ dâng cao ngập hết bãi bồi, cá sẽ lên vật đẻ, chuẩn bị sẵn đèn đóm và nơm vó, nhất định tối hôm nay ta sẽ bắt được nhiều cá đấy.
- Vâng ạ!
Thằng Nam đáp. Trời đã mờ tối. Lão Vận và thằng Nam cùng đi về phía căn nhà nhỏ trên bến sông. Gần đến nhà lão Vận, con cún bỗng gầm gừ vì phát hiện ra người lạ. Thằng Nam nhìn thấy có một bóng người đeo súng đang đứng ở cửa. Nó giật mình hỏi:
- Ai đấy?
Người đó quay phắt lại. Thằng Nam nhận ra đó là cái Na, chiến sĩ cùng trung đội dân quân làng Hạ. Nhận ra thằng Nam cái Na gọi vẻ hốt hoảng:
- Nam ơi! Về... về... đơn vị ngay, có chuyện không hay rồi... nhanh... nhanh lên...
- Có chuyện gì thế?
- Cứ về ngay khắc biết... trung đội trưởng bảo mình gọi Nam về ngay...
Giọng cái Na vẫn líu đi vì sợ hãi. Rồi đột nhiên nó bật khóc. Thằng Nam cũng phát hoảng dù chưa hiểu là việc gì đã xảy ra. Nó vội vã chạy theo cái Na ngược trở lên trận địa Đồi Ma. Hai đứa quên cả chào lão Vận đang đứng ngơ ngác ở cửa nhà.
(còn nữa) Hà Nội, 11-2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét