Trong vòng lửa
Truyện của Trọng Bảo
Khi sương mù vừa tan thì tiếng súng nổ chát chúa khắp Lũng Mật. Đó là tiếng súng 12ly7 và tiếng cối 60. Thung lũng mù mịt lửa khói. Tiếng kêu hoảng loạn của nhiều người vang lên.
Khi xác định được hướng bắn của bọn địch chúng tôi càng sợ. Bọn địch đã vác được súng 12ly7, đại liên và cối 60 lên một mỏm núi cheo leo dốc đứng đầu Lũng Mật mà từ đây chúng có thể khống chế toàn bộ Lũng Mật. Bọn này chắc chắn phải là lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ của quân địch.
Chúng tôi vội ép người sau các mô đá chống trả. Nhưng có nhiều người nấp sau mô đá vẫn bị trúng đạn của bọn đang ngồi trên cao. Những viên đạn bắn tỉa của chúng xỉa xuống khá chính xác. Tiểu đoàn trưởng Thêm và chính trị viên Hoàng lệnh cho các đơn vị vượt qua đoạn dốc yên ngựa rút đi. Nhưng nếu không khống chế được hoả lực địch trên mỏm núi đầu Lũng Mật thì đội hình leo lên dốc sẽ làm những tấm bia sống cho bọn giặc thử súng.
Trong lúc tình hình vô cùng nguy ngập ấy, đại đội trưởng Bàng đi đến một quyết định táo bạo. Anh lệnh cho một khẩu đội 12ly7 vòng ra phía sau lưng địch. Họ leo lên một mô đá trống trải phơi mình ra cho bọn bắn tỉa. Nhưng từ đây họ có thể dùng hỏa lực mạnh bắn thẳng lên mỏm núi bọn địch đang đặt hoả lực khống chế bộ đội ta ở Lũng Mật.
Khẩu 12ly7 do đại đội trưởng Bàng chỉ huy bắt đầu lên tiếng. Đạn 12ly7 nổ choang choác xả vào vị trí của bọn địch. Bị bất ngờ, bọn địch trên mỏm núi lúng túng. Chúng phải quay súng về phía mô đá. Lợi dụng cơ hội đó, tiểu đoàn trưởng Thêm lệnh cho các bộ phận nhanh chóng vượt qua dốc yên ngựa rút sang thung lũng bên cạnh. Chúng tôi chạy gằn trên đoạn dốc trống trải, vừa chạy vừa tránh đạn địch. Đó là một cuộc chạy đua với cái chết thực sự. Cứ chạy một đoạn chúng tôi lại nằm sấp xuống mặt đường tránh đạn. Đạn bắn xối xả, khói bụi mù mịt. Vẫn có những người bị trúng đạn chới với ngã gục xuống mặt đường hoặc lăn nhào xuống sườn núi. Linh tính hình như giúp tôi thoát khỏi những loạt đạn bắn đuổi của bọn địch. Tôi đeo ba lô, xách súng, chạy ngược dốc. Cứ chạy được một đoạn khi tôi vừa nằm ép xuống mặt đường thì đạn lại bắn chiu chíu ngay sát trên lưng, lá cây ven đường rụng lả tả. Thật may, lần nào cũng thoát cả. Thằng Hoà, trợ lý chính trị tiểu đoàn chạy trước tôi. Khi nấp được sau một mô đá khá an toàn, nhìn thấy tôi lúc chạy gằn, lúc nằm bẹp xuống mặt đường nó bèn gọi to:
- Hà ơi! Cứ bình tĩnh mà chạy lên đây, tao yểm hộ cho...
Nó cầm khẩu M79 giơ giơ lên động viên tôi. Tôi nghe tiếng nó gọi vừa ngước lên nhìn nó thì nghe rầm một tiếng. Quả đạn cối 60 nổ ngay trên vách núi gần chỗ nó đang nấp. Khói bụi mù mịt. Tôi hốt hoảng nghĩ: "Thôi chết! Không khéo thằng này tan tành thành từng mảnh mất rồi!".
Lợi dụng địch vừa ngừng bắn, tôi nhỏm ngay dậy lao lên. Lúc tôi lăn được sang phía bên kia dốc yên ngựa, khuất hẳn tầm bắn của bọn địch thì gặp thằng Hoà đang ngồi thu lu trong một hẻm đá. Thấy nó không bị sây sát gì tôi mừng lắm. Tôi bảo:
Lợi dụng địch vừa ngừng bắn, tôi nhỏm ngay dậy lao lên. Lúc tôi lăn được sang phía bên kia dốc yên ngựa, khuất hẳn tầm bắn của bọn địch thì gặp thằng Hoà đang ngồi thu lu trong một hẻm đá. Thấy nó không bị sây sát gì tôi mừng lắm. Tôi bảo:
- Chờ mày yểm hộ thì tao toi mạng từ đời tám hoánh nào rồi...
Nó cười hề hề tuy mặt thì vẫn còn tái đi:
- Nói thế để cho mày yên tâm! Tao chỉ còn mỗi hai viên đạn thì yểm hộ cái cóc khô gì được nữa chứ?
- Thảo nào nó mới choang cho một quả cối mày đã chuồn nhanh thế!
- Hì... suýt nữa thì tao tan xác với nó đấy! Mà này, đói chưa?
- Từ sáng đến giờ nó choảng cho tối mắt, tối mũi đã kiếm được cái gì cho vào bụng đâu!
Thằng Hoà lục cóc ba lô lôi ra nửa con gà luộc. Nó xé đưa cho tôi cái đùi và bảo:
- Hôm qua xuống bản, bà con cho đấy! Mày ăn lấy một miếng đi.
Thịt gà ăn vã, không muối, nhạt bã ra trong miệng.
Đến gần trưa thì các bộ phận đều rút ra khỏi được Lũng Mật. Cũng chẳng biết ai hy sinh, ai bị thương nữa. Tôi kiểm tra bộ phận của mình thấy còn đủ là biết an toàn thôi. Chúng tôi tiếp tục đi tìm vị trí ẩn náu mới tìm thời cơ phá vây rút lui sang Nguyên Bình theo mệnh lệnh của trung đoàn.
Buổi chiều, tôi và thằng Quý đang đi tìm kiếm mạch nước thì gặp anh Bàng trong một khe núi. Tay trái anh băng kín treo lên cổ. Tôi liền nhao đến hỏi:
- Anh bị thương à?
- Gãy mẹ nó một tay rồi mày ạ!
- Trúng đạn à?
- Đạn nào bắn trúng tao được. Lúc tao lăn từ mô đá xuống bị ngã đấy!
- Anh phải cố định thật cẩn thận đấy!
- Mẹ kiếp! Kiểu này thì leo vách đá thế quái nào được nữa. Mà tao cũng đếch cần rút lui nữa. Bọn chúng truy đuổi đến đây tao thí mạng với chúng luôn. Tay phải tao vẫn bắn súng ngắn tốt, mày yên tâm...
Tôi định chào anh để đi thì nhác thấy bóng cô tiểu đội trưởng dân quân bản Táp Ná đang lúi húi mắc võng trong khe đá. A! Ông này số vẫn đào hoa ghê, bọn địch đuổi đến đít rồi vẫn có gái đi theo. Tôi nháy mắt khẽ nói:
- Bây giờ chắc không lo bị bắt quả tang nữa anh nhỉ?
- Dân quân các bản cũng đã chạy hết lên núi cùng bộ đội. Cô ấy đến giúp đại đội tao khoản hậu cần ấy mà...
- Cả cái khoản... XYZ nữa chứ?
- Thôi mày biến đi! Đánh nhau mệt bỏ mẹ còn XYZ gì được nữa!
Tôi bữu môi:
- Mỡ đến miệng mèo kiêng làm sao được... hi...hi... khởi động tý leo núi càng khỏe...
Tôi vừa quay đi thì anh gọi giật lại:
- Khoan đã, quay lại tao bảo.
Tôi dừng lại. Anh Bàng rút từ cái túi đeo bên người đưa cho tôi một cái gói nhỏ và dặn:
- Ruốc bông trộn mỳ chính đấy! Lúc nào đói khát và mệt quá thì ngậm một nhúm vào miệng cho lại sức. Nhìn mày ốm yếu thế này tao lo lắm!
- Vâng... anh phải cẩn thận nhé!
- Mày cũng phải cẩn thận đấy! Nghe nói mày hay liều lĩnh lắm phải không?
- Vâng... anh phải cẩn thận nhé!
- Mày cũng phải cẩn thận đấy! Nghe nói mày hay liều lĩnh lắm phải không?
- Em có liều gì đâu?
- Bọn chúng nó nói hôm nọ mấy thằng chúng mày xuống bản Nà Nghiềng bị một trận hút chết hả?
- Hì... tại hôm ấy đói quá...
- Đói thì đói cũng không được chủ quan nhá!
Nghe anh Bàng dặn, tôi ậm ừ để anh yên tâm. Nhớ lại hôm ở Nà Nghiềng tôi cũng thấy sởn gai ốc. Hôm đó khi trời vừa mới nhá nhem tối, tôi, thằng Quý và hai chiến sĩ đã tụt xuống núi. Nhiệm vụ của chúng tôi là tìm cách trở lại vị trí kho quân khí của tiểu đoàn để tìm đạn súng bộ binh và lựu đạn chuẩn bị cho cuộc phá vây. Chúng tôi lần mò theo con mương nước mà hôm trước đã theo nó để rút ra. Bọn địch đã chiếm được thị trấn đổ nát không còn quân ta. Lực lượng của chúng còn lại phòng ngự thưa hơn. Sau khi tìm được mấy hòm đạn AK, tôi bảo:
- Vào bản kiếm cái gì ăn đã, đói lắm rồi!
- Nhưng lỡ chạm bọn địch thì sao?
Thằng Quý gàn. Tôi nói:
- Đừng sợ! Bọn chúng tưởng quân ta đã rút hết rồi nên để lại rất ít lực lượng ở thị trấn. Ta vào bản Nà Nghiềng xem kiếm được cái gì ăn rồi rút luôn.
Đúng như tôi nghĩ, bản chẳng có một bóng người. Bầu trời sáng lờ mờ. Ánh trăng xuyên qua làn sương mù dày đặc. Các lối đi trong bản cây cối bị đạn bắn đổ ngổn ngang. Chúng tôi phải lách người len lỏi trong đống đổ nát. Trong cảnh hoang vắng chết chóc, sương rơi ướt vai áo làm cho chúng tôi càng thấy lạnh lẽo, cô quạnh. Vừa lặng lẽ bước đi tôi vừa chú ý quan sát, nghe ngóng. Chúng tôi leo lên một ngôi nhà sàn kiếm được một ít ngô thì nghe tiếng chạy huỳnh huỵch dưới gầm sàn. Tôi hỏi:
- Thằng nào chạy đi đâu đấy?
- Không... không... phải quân ta, bọn địch đấy!
Tiếng thằng Quý líu cả lưỡi đi vì sợ. Tôi vội nhô ra nhìn xuống gầm sàn. Bóng mấy tên lính địch đang vác súng cối chạy qua vườn chuối vào gầm ngôi nhà sàn mà chúng tôi đang ở trên. Bỏ mẹ rồi, tôi nghĩ bọn này từ đâu xông vào bản vậy. Vào đến gầm ngôi nhà sàn, chúng dừng lại soi đèn pin loang loáng. Hình như chúng định nghỉ đêm dưới gầm nhà. Một thằng trải tấm bạt ra nền đất. Có ánh đèn chiếu ngược lên sàn. Chúng tôi phải nằm ép người xuống sạp nứa không dám thở mạnh. Tôi nghĩ, nếu mà mấy thằng này leo lên nhà thì mình toi mạng hẳn. Tôi lần thắt lưng tìm quả lựu đạn mỏ vịt. Tôi đã tính đến tình huống xấu nhất là sẽ thả quả lựu đạn xuống đầu bọn địch rồi nhảy xuống đất tháo chạy. Tôi khe khẽ sờ tay thằng Quý vỗ vỗ ra hiệu cho nó. Thằng quý hơi gật gật đầu vẻ hiểu ý định của tôi.
Tôi và mấy chiến sĩ vẫn nằm. Dưới gầm nhà sàn tiếng bọn địch trao đổi với nhau rì rầm. Không hiểu bọn chúng nói với nhau cái gì. Đột nhiên có một tiếng hô khẩu lệnh. Chắc là tiếng của thằng chỉ huy khẩu đội. Mấy thằng đang nằm ngồi vội bật dậy. Chúng nhanh chóng thu khẩu cối và trang bị vác lên vai. Hình như bọn này lại chuẩn bị cơ động. Đúng vậy. Bọn chúng chui ra phía bên trái ngôi nhà, lối đường ra thị trấn. Tôi kéo tay thằng Quý thì thào:
- Mày và hai thằng nhanh chóng rút ngay ra phía mương nước để tao xử lý mấy tên địch này nhé!
- Nguy hiểm lắm! Đi ngay thôi anh ơi!
Mặc cho Quý gàn, tôi nhỏm dậy lao ra phía đầu nhà. Mấy tên địch đang lui cui vác súng chạy xuống dốc. Tôi rút chốt quả lựu đạn tung theo. Khi tiếng nổ vang lên thì tôi đã chạm chân xuống đất. Tôi lao luôn về phía mương nước.
Sau tiếng nổ, từ các vị trí phòng ngự tiếng súng của bọn địch bắn rầm rầm vào bản Nà Nghiềng. Chúng tôi chạy hút hơi ra theo con mương ra cánh đồng để vượt lên núi. Cũng may là không vấp phải toán lính địch nào chặn đường. Bọn địch chỉ từ các điểm cao đổ đạn vào bản Nà Nghiềng và sang phía núi đá.
Đến điểm hẹn ở chân núi đá tôi đã thấy Quý và hai chiến sĩ đang chờ ở đó. Thằng Quý hổn hển hỏi:
- Mấy thằng giặc ấy chắc toi hết cả chứ anh?
- Tao cũng chẳng kịp nhìn xem nó có chết hay không! Chạy một phen hết cả hơi mới ra đến đây đấy.
- Anh liều lĩnh quá!
Một chiến sĩ nói. Tôi bảo:
- Thôi rút lên núi ngay. Cấm không được thằng nào báo cáo việc này với chỉ huy tiểu đoàn nhé!
Cũng may hôm ấy không xảy ra thương vong gì. Việc chúng tôi mang được mấy hòm đạn về còn được tiểu đoàn trưởng biểu dương nữa... Ấy thế mà anh Bàng lại biết chuyện. Chắc là anh lại nghe thằng Quý bép xép.
Gói ruốc của anh Bàng tôi đã giữ suốt thời gian trong vòng vây. Khi nào thật cần thiết chúng tôi mới chia nhau một nhúm lấy chất muối để đánh lừa cái lưỡi. Cuộc hành quân trên dãy núi đá thật gian khổ. Đôi chân rã rời vì lao núi suốt ngày đêm. Cái đói, cái khát rồi những lần giặc đuổi chạy đến hút hơi, thở không kịp tôi càng thấy giá trị của gối ruốc bông ấy.
(còn nữa)
tiếp đi bác ơi ! cháu đang vào mạch nên mong phần tiếp của bác đây..cứ thấy đánh nhau , súng ống, chết chóc , yêu đương là cháu mê rồi . mê ko phải vì hiếu kì mà là vì thế hệ của chúng cháu bây giờ ít đc biết đến những thời kỳ đất nước như thế này lắm ...
Trả lờiXóacám ơn bác !