Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2019

Ghi chép CHÚNG TÔI Ở BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC - phần 4

CHÚNG TÔI Ở BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC - phần 4
Ghi chép của Trọng Bảo 


4-Đêm trước cuộc chiến tranh

Vị trí chỉ huy và cơ quan tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 3 tiếp tục dâng lên phía trước. Chúng tôi chuyển lên đóng quân ở bản Cốc Vường, ngay phía sau các điểm chốt tiền tiêu cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai của Đại đội 11, cách đường biên giới và cửa khẩu Bình Mãng độ nửa ki-lô-mét đường chim bay. Bản Cốc Vường còn rất ít người dân ở lại. Hầu hết trẻ em, phụ nữ, người già đã sơ tán về phía sau hoặc lánh lên núi cao, chỉ còn vài chiến sĩ dân quân ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ bản làng, trông coi nhà cửa và hỗ trợ bộ đội tuần tra canh gác, vận chuyển đạn dược.
Tiểu đội vô tuyến của tôi ở trên căn nhà sàn nhô ra sát con đường lên cửa khẩu. Đứng trên sàn nhà có thế quan sát các điểm chốt của Đại đội 11 và thấy rõ cả đài quan sát của bọn Trung Quốc ở mỏm núi đá phía bên phải trên đầu điểm chốt cây đa thứ nhất của Đại đội 11. Phía bên trái là bản Kéo Nghìn do Đại đội 9 phòng ngự. Trên dãy núi đá là trận địa hỏa lực của Đại đội 12 gồm các khẩu đội 12ly7 và cối 82 bố trí tại Lũng Mật, Lũng Vỉ. Đại đội 10 ở phía sau trấn giữ con đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang (huyện Hà Quảng). Trận địa phòng ngự của Đại đội 10 là mỏm núi đất nằm ngay dưới chân cao điểm 505. Đây là một điểm cao có tầm khống chế toàn bộ thị trấn Sóc Giang và xã Sóc Hà. Cao điểm 505 nằm trên dãy núi đất cây cối rậm rạp chạy song song với dãy núi đá xuôi về phía Mỏ Sắt, Thông Nông.
Do phải di chuyển vị trí đóng quân lên bản Cốc Vường nên tiểu đội vô tuyến sóng cực ngắn của tôi đều có mặt đầy đủ ở cơ quan tiểu đoàn bộ. Các tổ đài đi tăng cường đảm bảo thông tin cho chỉ huy các đại đội đều rút về Cốc Vường. Lâu lâu rồi chúng tôi mới lại có một bữa ăn có mặt đầy đủ toàn tiểu đội thế này. Bữa cơm tối có một chút chất tươi. Cơ quan tiểu đoàn bộ thịt con lợn lấy thực phẩm nên mỗi người được vài miếng thịt, miếng lòng dồi. Vừa ăn, tôi vừa tranh thủ phổ biến tình hình, động viên anh em và phân công công việc ngày mai cho các bộ phận. Ngày mai là chủ nhật, trừ bộ phận trực đảm bảo thông tin sẵn sàng chiến đấu số anh em còn lại của tiểu đội sẽ đi làm đất trồng ngô. Chúng tôi đã được dân bản cho mượn một vạt đất gần phía hang Ma Gà để tổ chức tăng gia sản xuất. Mùa xuân đang tới. Mưa xuân tạo không khí ẩm ướt cho một vùng đất đai khô hạn. Cây cối đang lên chồi nảy lộc, cũng là mùa cày cuốc gieo trồng trên vùng cao này. Vừa nghe tôi phổ biến công việc xong thằng Châu liền hỏi luôn:
- Đánh nhau đến nơi rồi mà vẫn đi trồng ngô hả anh?
- Phải trồng để lấy lương thực chứ! Khi nào đánh nhau hẵng hay...
Nghe tôi đáp anh em ồn ào. Tiểu đội phó Vũ Văn Tự nói:
- Khu đất sau bản ấy rất màu mỡ, trồng ngô chắc sẽ tốt lắm đấy!
Tôi nói thêm:
- Ăn xong mọi người tranh thủ vào các nhà dân trong bản còn có người ở lại mượn cuốc xẻng để mai đi làm đất trồng ngô. Hạt giống tiểu đoàn sẽ cung cấp rõ chưa?
- Rõ... rõ...
Mọi người đáp và nhanh chóng thu dọn xoong nồi, bát đũa. Mấy anh em khác thì tranh thủ đi mượn dụng cụ lao động. Tôi rút cuốn sổ ghi chép ra nhưng chưa kịp viết thì tiểu đội trưởng truyền đạt Nguyễn Văn Đam đến. Tôi và Đam ngồi nói chuyện với nhau. Đam bảo:
- Tao có linh cảm là chiến tranh sắp xảy ra mày ạ!
- Thì… chắc chắn thế nào chiến tranh cũng sẽ xảy ra thôi. Tình hình này chả sớm thì muộn…
Nghe tôi nói vậy Đam có vẻ trầm ngâm rồi nói:
- Biết bao giờ chiến tranh mới kết thúc để bọn mình về tiếp tục ôn thi vào đại học nhỉ?
- Cũng chả biết liệu bọn mình có còn cơ hội để đi học đại học nữa hay không? Chiến tranh không xảy ra nhưng cứ nhùng nhằng mãi thế này cũng khó mà ra quân được…. À… mày vẫn còn mang theo mấy cuốn sách giáo khoa để ôn thi đại học phải không?
Đam gật đầu. Tôi nhăn mặt bảo:
- Tình hình thế này cũng đã đến lúc mày vứt mẹ mấy cuốn sách ấy đi cho nhẹ lúc hành quân, để đeo thêm mấy băng đạn, vài cân gạo. Lúc nào hết chiến tranh chúng ta tính sau!
Đam im lặng không nói gì. Nó xách khẩu AK đứng dậy bảo:
- Thôi! Tao về đây, sắp đến phiên đổi gác rồi!
Tôi nhìn theo thằng Đam tụt xuống cầu thang. Trông nó gầy gò nhỏ bé. Khi thằng Đam đã lẫn vào bóng đêm rồi tôi vẫn chưa hết suy nghĩ về nó. Tôi và Đam cùng quê Lập Thạch-Vĩnh Phúc, cùng nhập ngũ ngày 25-2-1975. Hôm lên huyện tập trung để dự lễ giao nhận quân tôi chỉ có một bộ quần áo mặc trên người và cái túi đựng cuốn sổ ghi lưu bút của bạn bè. Trong khi đó thằng Đam đeo một cái bọc to kềnh càng sau lưng. Tôi hỏi:
- Mày mang theo đồ đạc gì mà nhiều thế?
- Tao mang theo sách vở để lúc nào rỗi thì học thêm. Hoàn thành nghĩa vụ trở về tao lại thi vào đại học.
- Mày viển vông quá! Đang chiến tranh thế này biết bao giờ mới trở về đi học được?
- Chiến tranh rồi cũng phải kết thúc chứ!
- Nhưng hành quân súng đạn, gạo củi nặng bỏ mẹ mày còn đeo thêm sách vở thế nào được.
- Tao sẽ cố...
- Thôi mặc xác mày!
Nhận quân trang xong, được cấp thêm bảy ki-lô-gam gạo nữa nên ba lô của chúng tôi căng phồng. Tôi cứ tưởng là sẽ leo ngay lên ô tô rầm rập phóng ra mặt trận ngay. Nhưng không, chúng tôi được biên chế vào một đơn vị thuộc tỉnh đội. Và việc đầu tiên là hành quân bộ vượt sông Lô sang huyện Lâm Thao huấn luyện. Đoạn đường hơn năm mươi cây số không xa, nhưng lần đầu tiên cuốc bộ lại không quen với đôi dép cao su mới phát nên chân tôi chầy chật rớm máu. Tôi để ý thấy thằng Đam vẫn lặng lẽ bước đi phía trước. Trông nó vóc dáng đã bé nhỏ nên như bị cái ba lô đè gập người xuống. Tôi nghĩ: "Cứ đà này thì qua phà nó ném bọc sách vở cho trôi sông luôn!".
Nhưng Đam vẫn mang được bọc sách vở về đến đơn vị. Suốt thời gian huấn luyện chiến sĩ mới lúc nào được nghỉ tôi thường thấy Đam chúi đầu vào mấy cuốn sách. Mặc cho tôi và mấy thằng cùng tiểu đội khích bác nhưng Đam vẫn bỏ ngoài tai. Nhiều lần gặp tôi nó khoe vừa giải được một bài toán khó trong tuyển tập đề thi đại học. Tôi bảo:
- Biết bao giờ mới được ra quân mà mày học làm gì cho tốn công tốn sức?
- Thì rồi cũng phải ra quân chứ. Chiến tranh chống Mỹ kết thúc rồi họ sẽ cho tụi mình về thôi!
Nhưng chúng tôi không được xuất ngũ như Đam nói. Đơn vị chúng tôi nhận lệnh hành quân lên Hà Giang làm kinh tế. Chúng tôi nhận nhiệm vụ mở con đường lâm nghiệp giữa rừng sâu. Đó là những ngày gian khổ nhất của cuộc đời chiến sĩ chúng tôi. Sống giữa rừng sâu ăn uống thiếu thốn làm việc vất vả. Tôi và Đam mỗi người về một đơn vị khác nhau. Hôm đi công tác qua Tiểu đoàn 1 tạt vào thăm Đam tôi vẫn thấy trên giá ba lô chỗ nó nằm những cuốn sách ôn thi địa học đã sờn gáy. Thì ra, nó vẫn không quên việc học tập. Hình như đối với nó học là một niềm vui hy vọng của cuộc sống.
Niềm hy vọng vào đại học của thằng Đam lại không thể thực hiện được khi chiến tranh biên giới đang có nguy cơ nổ ra bất cứ lúc nào. Tôi còn nhớ bữa còn ở bản Nà Liền, một buổi tối, tôi đang nằm nghỉ sau một ngày đào hầm xây dựng trận địa thì thằng Đam ở đâu về đưa cho tôi hơn chục miếng bìa cứng có những ký hiệu bằng chữ và số được để trong túi giấy bóng kính cẩn thận. Nó bảo:
- Đây là mã số của từng người trong tiểu đội của ông. Nhớ dặn mọi người luôn luôn để trong túi ngực phòng khi...
Nghe Đam nói tôi hiểu. Những tấm bìa này ghi mã số của từng người để khi ai hy sinh thì chôn theo sau này còn biết danh tính liệt sĩ. (Nếu tôi nhớ không nhầm thì mã số của tôi ngày ấy là JA-301).
Hôm ấy, sau khi đưa cho tôi những miếng bìa ghi mã số để đánh dấu mộ chí khi cần thiết xong thằng Đam bỗng thần mặt ra một lúc rồi hỏi:
- Không biết sau trận này mình có được ra quân về đi học tiếp không nhỉ?
- Chắc chắn rồi! Mày cứ yên tâm...
Nói vậy nhưng tôi cũng không tin ở lời mình lắm. Đam cũng lặng lẽ không nói gì thêm. Hai đứa cùng nhìn ra ngoài trời. Ánh trăng mờ nhạt trong hơi sương lạnh lẽo. Rừng núi âm u. Bóng ma chiến tranh lẩn khuất ở đâu đó phía bên kia biên giới. Buổi tối hôm nay nghe thằng Đam nhắc lại chuyện học hành tôi thấy thương nó quá. Tôi tự nhủ tối ngày mai sẽ sang tâm sự, động viên nó. Tôi có ngờ đâu chỉ mấy tiếng sau thằng Đam đã đem theo ước mơ học hành của nó đi vào lòng đất biên cương.
Đêm đã về khuya. Anh em trong tiểu đội đã ngủ yên. Mấy người đi đổi gác. Tôi mở cuốn sổ nhỏ ra soi đèn pin ghi chép tóm tắt tình hình trong ngày. Khi tôi vừa ngả người xuống sàn nhà định chợp mắt một lát thì trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi chạy đến gọi tôi dậy ra lệnh gấp:
- Triển khai ngay các tổ đài xuống các đơn vị! Khẩn trương lên. Đúng 12 giờ đêm phải thông mạng liên lạc vô tuyến điện. Rõ chưa?
Tôi hỏi lại:
- Lại báo động kiểm tra phương án sẵn sàng chiến đấu à?
- Kiểm tra gì? Mệnh lệnh chiến đấu thật đấy… - Mùi hạ giọng nói tiếp: - Trinh sát vừa báo cáo về, bọn Trung Quốc đã cắt phá hàng chục mét rào dây thép gai của ta trên tuyến biên giới chỗ cửa khẩu Bình Mãng và xua đuổi gần chục con trâu sang đất ta để phát hiện bãi mìn rồi! Rất có khả năng bọn giặc sẽ tấn công chúng ta đêm nay đấy… Ông cho triển khai mạng liên lạc vô tuyến điện thật khẩn trương nhé!
- Rõ rồi! Trung đội trưởng cứ yên tâm!
Tôi lập tức gọi anh em trong tiểu đội dậy giao nhiệm vụ đi ngay các đại đội. Đã có phương án sẵn sàng nên các tổ đài lập tức lên đường. Tiểu đội phó Tự và Hoàng Quy xuống Đại đội 10, Châu và Phủng lên Đại đội 11, Đình và Minh lên Đại đội 12 hỏa lực trên đỉnh núi đá. Kếch và Minh sang Đại đội 9. Tại sở chỉ huy tiểu đoàn chỉ còn tôi và Hoàng Văn Mông. Gần 12 giờ đêm, các tổ đài đã gọi về báo cáo thông mạng liên lạc. Tôi lo nhất là Đình và Minh đêm tối phải leo lên dốc lên núi cao. May mà người và máy móc, vũ khí đều an toàn. Tôi dặn dò các tổ đài phải luôn đảm bảo canh trực, kiên quyết giữ vững thông tin liên lạc phục vụ chỉ huy chiến đấu. Đoạn, tôi chạy đi báo cáo tình hình với trung đội trưởng và chỉ huy tiểu đoàn. Xong xuôi thì đã hơn một giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979. Tôi ngả lưng xuống sàn kéo chăn đắp cho đỡ lạnh rồi ngủ thiếp đi…
Đó là đêm trước của cuộc chiến tranh. Bởi vì chỉ hơn một tiếng sau, quân Trung Quốc bắt đầu nổ súng tấn công sang xâm lược nước ta…
(còn nữa) Hà Nội, tháng 2-2019

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét