Nhớ ngày mười bảy tháng hai năm
ấy
Tản văn
của Trọng
Bảo
Ba mươi tám năm trước, ngày 17 tháng 2 đúng vào chủ nhật. Hồi ấy, sau cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, chúng tôi được cấp trên phổ biến lại là Trung Quốc đánh sang Việt Nam chọn vào ngày chủ nhật để giảm dư luận quốc tế phản đối vì ngày cuối tuần ở phương Tây họ thường nghỉ làm việc đi du lịch, giải trí, ít chú ý đến vấn đề thời sự, không có phản ứng kịp thời. Khi sang đến ngày thứ hai của tuần thì việc nổ ra một cuộc chiến tranh là chuyện đã rồi.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, cách nay ba mươi
tám năm tôi có mặt ở khu vực cửa khẩu Bình Mãng (Hà Quảng-Cao Bằng). Trung đội
thông tin của chúng tôi trú quân ở bản Cốc Vườn, cách đường biên giới chưa đầy
năm trăm mét đường chim bay. Đứng trên sàn trước cửa ngôi nhà sàn của đồng bào
dân tộc tôi nhìn rõ vị trí đặt súng 12ly7 của đối phương ở trên một mỏm núi đá
ăn sâu vào đất ta. Buổi tối ngày thứ bảy (16-2-1979), chúng tôi còn chuẩn bị
dụng cụ để ngày mai chủ nhật được nghỉ toàn đơn vị sẽ đi cuốc đất trồng ngô.
Nhưng đến nửa đêm thì có lệnh báo động chiến đấu, các bộ phận nhanh chóng cơ
động lực lượng lên trận địa phòng ngự. Lợi dụng đêm tối, bọn địch đã cắt phá mấy
chục mét rào biên giới, lùa hàng chục con trâu sang để phát hiện vị trí các bãi
mìn của ta. Trung đội thông tin tiểu đoàn 3 chúng tôi được lệnh triển khai tổ
chức các hướng đảm bảo liên lạc cho các điểm chốt của bộ binh và trận địa hoả
lực. Anh em đi hết, trong ngôi nhà sàn rộng thênh thang chỉ con một mình tôi và
một chiến sĩ vô tuyến 2W. Suốt đêm tôi không ngủ được vì bận canh thông máy vô
tuyến cho các hướng liên lạc. Gần sáng, tôi vừa chợp mắt thì giật nảy mình bởi
những tiếng nổ dữ dội. Tôi bật dậy vớ vội khẩu súng, khoác ba lô lao ra cửa nhà
thì nghe tiếng trung đội trưởng Mùi quát gọi:
- Bọn Trung Quốc tấn công rồi! Ra trận địa ngay! Khẩn trương lên...
- Rõ... -Tôi đáp rồi nhảy ào từ sàn nhà xuống đất.
- Bọn Trung Quốc tấn công rồi! Ra trận địa ngay! Khẩn trương lên...
- Rõ... -Tôi đáp rồi nhảy ào từ sàn nhà xuống đất.
Mông, người dân tộc Nùng, chiến sĩ thông tin vô tuyến đeo máy phóng theo. Chúng tôi lúc chạy, lúc thì nằm ép
người bò lết theo lòng mương nước, bờ ruộng trên cánh đồng trống trải để tránh
đạn. Chúng tôi phải có mặt ở vị trí chỉ huy của tiểu đoàn một cách nhanh nhất để đảm bảo thông tin liên lạc cho chỉ huy. Bầu trời sáng rực lên bởi những
luồng lửa đạn từ phía bên kia biên giới bắn sang. Đạn bay đỏ rực, xé nát
cả bầu trời đêm. Tiếng pháo đinh tai, chói óc, tiếng đạn 12ly7 quét ràn rạt
trên cánh đồng. Tiếng người nháo nhác gào gọi nhau thảm thiết, tiếng kêu
khóc hoảng loạn của những người dân chưa kịp đi sơ tán. Tiếng chó sủa, gà kêu,
bò rống ầm ĩ tan tác, vỡ đàn. Tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng
đạn đang bốc cháy rần rật. Mọi thứ âm thanh hỗn độn ấy hoà vào nhau trong khói
lửa, cát bụi mù mịt. Đó là ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
mà tôi đã được chứng kiến và tham dự. Cuộc chiến tranh ấy đến hôm nay đã ba mươi
bảy năm rồi mà âm thanh và sự khốc liệt vẫn in hằn trong tâm trí. Một cuộc chiến
tranh không thể nào quên đối với bao nhiêu người lính đã trải qua ở nơi biên
cương ải bắc ngày ấy. Một cuộc chiến xin đừng lãng
quên...
Ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh vô cùng
ác liệt trên các hướng. Bọn địch tấn công như vũ bão. Xe tăng, bộ binh của chúng
lúc nhúc như dòi bọ trên những cánh đồng, trên những sườn đồi nơi tuyến đầu biên
giới nước ta. Chúng chọc thủng các tuyến phòng ngự của quân ta phía Thông Nông,
Trà Lĩnh. Xe tăng nhãn hiệu “bát nhất” của địch tiến rất nhanh về hướng thị xã
Cao Bằng. Khu vực trung đoàn chúng tôi phòng ngự địch cũng vượt qua được phòng
tuyến của tiểu đoàn 2 ở Pác Bó tiến thẳng xuống ngã ba Đôn Chương, đánh ngược
lên thì trấn Sóc Giang. Vậy là tiểu đoàn 3 chúng tôi nằm giữa vòng vây bốn bề
trung điệp của quân giặc. Đạn địch từ phía biên giới bắn xuống, pháo địch từ
phía sau nã lên và hai bên sườn là bộ binh và các đơn vị đặc nhiệm, thám báo
Trung Quốc ép sát tấn công bất kể ngày đêm. Tuy nhiên, hướng phòng ngự chính
diện của tiểu đoàn 3 chúng tôi bọn địch từ bên kia biên giới không thể tràn sang
để tiến sâu xuống thị trấn Sóc Giang. Bọn chúng bị chặn đứng ở khu vực chốt cây
đa của đại đội 11. Hàng trăm tên địch bị tiêu diệt, hàng chục chiếc xe tăng cuả
bọn chúng bị bắn cháy, Trận địa của các đơn vị lở lói tan hoang, đất đá, hầm hào
bị tróc hết sau những đợt nã pháo và tấn công dữ dội của quân địch. Vậy mà sau
hàng chục đợt xung phong của bọn xâm lược trong ngày đầu tiên của cuộc chiến
tranh đại đội 11 vẫn bảo vệ được chốt cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai.
Song tình hình của tiểu đoàn 3 chúng tôi cũng vô cùng khó khăn, nguy hiểm trước
sức ép tiến công của một lực lượng bộ binh, cơ giới đông đảo của quân xâm lược
và trước sự chi viện ngày càng thưa thớt, ít ỏi dần rồi mất hẳn của cấp
trên.
Đến nửa đêm ngày 17 tháng 2, chúng tôi
được lệnh chuyển vị trí chỉ huy tiểu đoàn xuống hang Huyện uỷ ở giữa thị trấn
Sóc Giang. Hang nằm lưng chừng một mỏm núi đá trơ chọi giữa thị trấn. Nơi mà mấy
ngày hôm sau đã diễn ra những trận đánh rất ác liệt khi quân địch từ phía sau
đánh ngược lên thị trấn Sóc Giang. Chúng tôi lặng lẽ bám sát nhau đi theo lối
mòn chân núi. Qua nghĩa trang thị trấn chúng tôi gặp các chiến sĩ trung đội vận
tải của tiểu đoàn đang hì hục đào huyệt chôn cất các liệt sĩ. Có gần mười cán
bộ, chiến sĩ, thân thể bê bết máu đang nằm trong nghĩa trang. Họ là những người
hy sinh trong ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh đã được đưa về đây. Họ được gói
trong những tấm vải liệm còn mới tinh, trong những túi ni-lông. Họ được vùi vào
trong lòng đất. Không có hương nhang, không có hoa, chỉ có những cành lá xanh
cắm lên từng nấm đất ướt đẫm sương đêm nơi biên giới. Những ngày sau đó khi thị
trấn Sóc Giang bị quân địch chiếm, bọn chúng đã cho đào các nấm mồ của các anh
chị lên để tìm vì nghi ngờ ta chôn dấu vũ khí. Sau chiến tranh chúng tôi chôn
cất lại cho các anh chị ấy. Vậy mà mới đó đã ba mươi bảy năm. Khi các anh chị
ngã xuống khi tuổi đời vừa mới mười tám, đôi mươi. Bây giờ “tuổi liệt sĩ” của
các anh chị ấy đã gần gấp đôi tuổi đời của họ khi đó.
Ba mươi tám năm đã trôi qua, hơn một phần
ba thế kỷ, nhưng năm nào đến ngày 17 tháng 2 tôi cũng đều nhớ về những người
đồng đội của mình mùa Xuân năm ấy. Đó là một mùa Xuân lạnh lẽo, đau thương, cánh
hoa đào rừng vương trên báng súng của những người lính Việt Nam trong một cuộc chiến
đấu không cân sức với kẻ thù hung bạo để bảo vệ miền biên giới của Tổ quốc thân
yêu.
Hà Nội, 16/2/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét